Quyển III
CHƯƠNG 1
Khi ta muốn tìm hiểu về bản chất và đặc tính của các mô hình chính quyền
khác nhau, thì việc đầu tiên phải làm là xác định xem “nhà nước là gì?”
Cho đến nay đây vẫn còn là một vấn đề còn nhiều tranh cãi. Một số người
cho rằng nhà nước [là tác nhân] thực hiện một số công việc nào đó; những
người khác thì lại cho rằng không phải là nhà nước mà là chính quyền theo
quả đầu hoặc cai trị bởi một bạo chúa. Cũng có người lại cho rằng mọi hoạt
động của nhà lập pháp đều liên quan đến nhà nước một cách tổng quát;
cuối cùng, có người cho rằng một hiến pháp hay một chính quyền là cách
thức sắp xếp cơ cấu quyền lực của những người cư ngụ trong nhà nước đó.
Nhưng nhà nước là một hỗn hợp do nhiều bộ phận tạo thành; những bộ
phận đó chính là công dân. Hiển nhiên, ta phải bắt đầu bằng câu hỏi, “ai là
công dân và từ này có ý nghĩa gì?” Bởi vì, một lần nữa, từ ngữ này cũng có
những quan điểm khác nhau. Một người là công dân của thể chế dân chủ thì
lại thường không phải là công dân của chế độ quả đầu. Hãy bỏ qua trường
hợp những người đã được xem là công dân, hay là những người trở thành
công dân vì một hoàn cảnh ngẫu nhiên nào đó, ta có thể nói rằng, trước hết,
người công dân không trở thành công dân chỉ vì người đó sinh sống ở một
chỗ nào đó, bởi vì ngoại kiều và nô lệ cũng sinh sống trên cùng chỗ đó;
cũng như y không trở thành công dân vì có được những quyền do pháp luật
quy định như đi kiện hoặc bị kiện mà thôi, bởi vì ngoại kiều cũng có được
những quyền này do hiệp ước [giữa hai nước] tạo nên. Nói cho đúng hơn,
ngoại kiều ở nhiều nơi cũng không hoàn toàn có được những quyền này, vì
họ buộc phải có người bảo trợ, cho nên họ cũng không hoàn toàn được
tham gia với đầy đủ tư cách công dân, vì thế ta gọi họ là công dân chỉ với
nghĩa hạn chế mà thôi, cũng như khi ta dùng từ này để chỉ những người trẻ
chưa đến tuổi ghi danh hay những người già đã được miễn các nghĩa vụ đối