nhất, vì họ không phải bận tâm lo cho của cải của họ. Mối bận tâm này
khiến cho người giàu bị cản trở không thể tham gia vào nghị viện hay toà
án. Chính vì thế mà nhà nước do người nghèo, tức thành phần đa số, cai trị,
chứ không còn do luật pháp cai trị nữa.
Đó là các loại chế độ dân chủ được hình thành vì các nguyên nhân kể trên.
Còn về chế độ quả đầu, một loại gồm có đa số công dân là những người có
một ít của cải. Loại này cho phép bất cứ ai có số tài sản yêu cầu được tham
gia chính sự. Vì số tài sản yêu cầu không nhiều nên đa số được dự phần vào
chính sự, và vì thế, luật pháp được dùng để cai trị chứ không phải con
người [cai trị] (nhân trị). Mô hình quả đầu này khác với mô hình quân chủ,
vì đa số các thành viên không có quá nhiều tài sản để có thể sinh sống mà
không phải làm việc, hay quá ít để được nhà nước tài trợ, cho nên họ buộc
phải chấp nhận sự cai trị của luật pháp thay vì chính họ cầm quyền. Nhưng
nếu chỉ có ít người có tài sản mà lại làm chủ nhiều tài sản hơn, một mô hình
quả đầu thứ hai được hình thành. Khi giai cấp này càng mạnh thì lại càng
muốn có nhiều quyền hành, và như thế họ tự cho mình cái quyền lựa chọn
những người thuộc giai cấp khác tham gia vào chính quyền. Nhưng vì chưa
đủ mạnh để cai trị mà không cần luật pháp, giai cấp này tạo ra luật lệ thay
cho ý muốn của họ. Khi con số người giàu ngày càng ít đi nhưng họ càng
ngày lại càng giàu hơn, thì mô hình quả đầu thứ ba ra đời: trong mô hình
này thành phần cai trị nắm giữ các chức vụ và ban hành luật “cha truyền
con nối.”
Chưa hết, khi kẻ cầm quyền có tài sản vĩ đại và vô số bạn bè, thì kiểu độc
tài gia đình này sẽ dẫn đến chế độ quân chủ: chính quyền do người cai trị
chứ không còn do pháp trị. Đây là mô hình thứ tư của chế độ quả đầu, cũng
tương tự như mô hình cuối cùng của dân chủ.