thề thốt rằng “ta sẽ là kẻ thù của quần chúng và sẽ làm mọi điều gây tai hoạ
cho quần chúng,” nhưng thật ra họ phải nói ngược lại và trong lời thề nên
có câu sau đây: “ta sẽ không làm điều gì gây hại cho nhân dân.”
Nhưng trong tất cả những điều mà sẽ giúp cho chế độ được bền vững nhất
là giáo dục dân chúng về thể chế chính trị nhưng ngày nay nguyên tắc này
hầu như bị quên lãng. Những luật lệ tốt đẹp nhất, dù được mọi công dân
chấp nhận, cũng sẽ chẳng đi tới đâu nếu những người trẻ không được giáo
dục và huấn luyện để thấm nhuần tinh thần hiến pháp của chế độ, tuỳ theo
dân chủ hay quả đầu. Sự rèn luyện tâm trí cho cả quốc gia cũng cần thiết
như sự rèn luyện cho mỗi người, vì trong một nước cũng có tình trạng thiếu
kỷ luật tự giác. Tuy nhiên, được giáo dục theo tinh thần của hiến pháp
không có nghĩa là làm những việc mà những người dân chủ hay quả đầu tán
thưởng, mà là những hành động sẽ bảo đảm được sự tồn tại của chế độ. Thế
nhưng ngày nay, trong xã hội của chúng ta con cái của giai cấp cai trị trong
chế độ quả đầu lại sống trong nhung lụa, còn con cái của người nghèo phải
làm lụng vất vả, cho nên họ có khuynh hướng và khả năng tạo ra thay đổi
chế độ. Còn trong những chế độ dân chủ cực đoan lại nẩy ra một ý tưởng
sai lầm về tự do tương phản với quyền lợi thực sự của quốc gia. Có hai
nguyên tắc chính của chế độ dân chủ là chính quyền của đa số và tự do cá
nhân. Người ta nghĩ rằng công lý tương đương với bình đẳng, và sự bình
đẳng tức là sự tối thượng của ý muốn của đa số. Còn tự do là mỗi cá nhân
tha hồ làm những gì mình muốn. Trong những chế độ dân chủ kiểu này,
người ta tha hồ sống theo ý thích của mình, hay nói như Euripides, “sống
theo sự hoang tưởng” của mình. Nhưng đó là một điều sai lầm lớn lao,
người ta không nên nghĩ rằng sống dưới sự cai trị của hiến pháp là nô lệ,
nhưng đó chính là được sự bảo vệ của luật pháp.
Ta đã bàn, một cách tổng quát, về những nguyên do dẫn đến thay đổi chế
độ và sụp đổ của nhà nước cũng như cách thức bảo tồn và duy trì hiến
pháp.