quang của phái nam. Còn đối với trẻ con, vì non nớt nên những đức hạnh
của chúng chưa được phát triển như khi đã trưởng thành, cho nên phải tuỳ
vào sự hướng dẫn của cha mẹ cho đến khi khôn lớn. Tương tự như vậy, đức
hạnh của kẻ nô lệ tuỳ thuộc vào chủ nhân của chúng.
Đến đây, ta đã thấy kẻ nô lệ là những kẻ hữu dụng để cung cấp những nhu
cầu cần thiết cho đời sống. Cho nên, kẻ nô lệ chỉ cần một số đức tính nào
đó để giúp cho họ không bị sự hèn nhát hoặc thiếu tự chủ ngăn trở khiến họ
không thể chu toàn bổn phận. Nếu những điều ta vừa nói là đúng, thì những
người thợ chẳng lẽ cũng không cần có đức hạnh hay sao? Vì họ cũng
thường chểnh mảng trong công việc vì thiếu tự chủ! Trong hai trường hợp
này có một sự khác biệt lớn lao. Đời sống của kẻ nô lệ lệ thuộc vào đời
sống của chủ nhân, còn người thợ chỉ lệ thuộc vào người chủ thuê họ làm
việc trong công việc đó mà thôi. Kẻ nô lệ thuộc vào hạng người do thiên
nhiên định như vậy, còn người thợ đóng giày hay các nghề khác tự chọn
làm các nghề này. Do đó, ta thấy người chủ gia đình phải tạo cho kẻ nô lệ
những đức hạnh cần thiết để làm tốt nhiệm vụ của họ, khác với người quản
trị ra lệnh cho kẻ nô lệ làm bổn phận. Vì vậy, ta có thể không đồng ý với
những kẻ cho rằng không nên trò chuyện với nô lệ mà chỉ cần ra lệnh thôi
là đủ rồi, vì nô lệ cần được nhắc nhở nhiều hơn là trẻ con.
Đề tài này đã được bàn khá đầy đủ. Khi ta bàn đến các mô hình chính
quyền khác nhau, ta sẽ bàn thêm về mối quan hệ giữa chồng và vợ, cha và
con, các đức hạnh khác nhau, và các điều tốt, xấu trong các quan hệ này
cùng những cách thức để đạt được điều tốt và tránh đi điều xấu. Vì mỗi gia
đình là một phần tử của nhà nước, và mhững mối quan hệ này là những
phần trong gia đình, và đức hạnh của phần tử cũng liên hệ đến đức hạnh
của tổng thể, cho nên phụ nữ và trẻ con phải được huấn luyện qua giáo dục
mà mục tiêu là cơ cấu chính trị. Đức hạnh của họ sẽ góp phần tạo thành đức
hạnh của nhà nước; thật vậy, trẻ con sẽ trở thành những công dân và phụ nữ
chiếm tới một nửa số người tự do trong đất nước.