nguyên của nhà nước. Tôi đã đồng ý đưa bà ấy năm mươi đô la. Tôi đoán
Hoffman sẽ đồng ý vụ đó.”
“Toptunova là một đồ tể.” Arkady thực sự không muốn nhìn vào xấp ảnh
đó.
“Đấy là anh chưa chứng kiến Louis Pasteur khám nghiệm tử thi ở sở
cảnh sát. Tạ ơn Chúa, cô ta mổ phanh xác chết ra ấy. Dù sao bà ấy cũng bảo
Ivanov bị gãy cổ. Mẹ kiếp, tôi cũng nói thế được. Và nếu ông ta không gãy
cổ thì cũng vỡ sọ. Về việc dùng thuốc thì hoàn toàn không, mặc dù bà ấy
nghĩ ông ta bị viêm loét dạ dày. Còn một chuyện rất kỳ lạ. Trong dạ dày
ông ấy chứa toàn bánh mì và muối.”
“Muối à?”
“Rất nhiều muối và chỉ có chút bánh mì đủ để đè muối xuống.”
“Bà ấy không nói gì về nước da của ông ta à?”
“Da ông ta thì có gì để nói? Chỉ có một vết bầm lớn. Tôi cũng đã hỏi lại
người gác cửa và lễ tân ở sảnh. Họ đều nói: không vấn đề gì, không có vi
phạm nào cả. Rồi một anh chàng đi cùng mấy con Dachshund cố gắng tiếp
cận tôi. Tôi chìa cho anh ta xem thẻ, anh biết không, anh ta nói, ‘Ồ, họ lại
sắp có đợt kiểm tra an ninh nữa à?’. Vào Chủ nhật, nhân viên tòa nhà sẽ
khóa thang máy và đến từng căn hộ để kiểm tra xem những ai đang ở trong.
Anh chàng đó vẫn rất bực bội. Đám chó của anh ta không chờ được và đã
có một tai nạn nho nhỏ.”
“Như thế nghĩa là có vi phạm. Họ tiến hành kiểm tra vào lúc nào?”
Victor xem xét sổ tay. “11 giờ 10 phút vào buổi sáng tại căn hộ của anh
ta. Anh ta ở tầng chín và tôi cho là họ kiểm tra từ trên xuống.”
“Rất tốt.” Arkady không thể nghĩ ra ai lại muốn thân cận với Victor,
nhưng tán thưởng thì chắc chắn có.
“Một vấn đề nữa.” Victor đặt bức ảnh chụp hai cái xô và giẻ lau sàn
xuống. “Những thứ này tôi tìm thấy ở hành lang của tòa nhà đối diện căn
hộ Ivanov. Bị bỏ đi, nhưng tên của công ty vệ sinh vẫn còn và tôi đã tìm ra
người bỏ chúng lại. Họ không chứng kiến cảnh Ivanov nhảy xuống, và liền
bỏ chạy ngay khi trông thấy xe cảnh sát vì họ nhập cư trái phép.”