Cuối cùng, hãy thừa nhận sai lầm và thất bại của bản thân mà không chối bỏ
hay xem đó như ngày tận thế. Đừng cố hợp lý hóa, cũng đừng kịch hóa nó lên.
Sau đó, hãy bắt tay hành động. Nghiên cứu cho thấy việc dành thời gian để ghi
lại những suy nghĩ tốt đẹp cho bản thân, rằng mình cũng là con người, cũng dễ
sai lầm, rằng mình có thể nhìn thẳng vào vấn đề mà không biến nó thành thảm
họa cảm xúc, tất cả những điều đó sẽ làm ta thoải mái hơn và gia tăng sự tự cảm
thông. Thiền định và chánh niệm cũng phát huy tác dụng. Hãy kết hợp những thứ
ấy để có kết quả tốt hơn.
Liệu làm xong hết những thứ này có giúp ta cải thiện cuộc đời chỉ sau một
đêm? Ồ, không đâu. Nhưng theo thời gian, cách này rất khả quan so với phương
pháp tự tin/không tự tin đã nói lúc nãy, thứ luôn đi kèm với tác dụng phụ.
Được rồi, đã đến lúc tổng kết lại mọi thứ chúng ta học được về thế lưỡng
nan của sự tự tin, rút ra vài mẹo vặt hữu dụng, và tìm hiểu thêm một điều cực kỳ
đáng kinh ngạc nữa về sự tự cảm thông.
Ông đã mất tất cả. Toàn bộ sản nghiệp gia đình. Và mất cả tâm trí nữa.
Nhưng Joshua Norton không mất đi sự tự tin. Ồ không. Vài người khi mất đi
trí não sẽ trở nên vô dụng và không thể làm việc được nữa. Nhưng Norton thì
không. Thực ra, ông còn kiếm được một công việc ngon lành hơn rất nhiều.
Ngày 17/9/1859, Norton trở thành Hoàng đế Norton. Nếu bạn không biết vụ
nước Mỹ từng có một hoàng đế thì, ừ, bạn đã gia tăng khả năng trúng Confetti
đêm nay rồi đó. (Đừng lo. Tổng thống Mỹ thời đó, James Buchanan, cũng chả
biết đâu.) Dĩ nhiên, đó là vị hoàng đế tự phong của nước Mỹ, nhưng thôi hãy tạm
gác vụ này lại.
Trong 21 năm ròng, Norton luôn tự hào vi hành trên đường phố San
Francisco với một bộ quân phục hoàn chỉnh đầy đủ cầu vai, một thanh gươm
cùng với một chiếc mũ lông công dựng đứng. Hai chú chó lang thang, Bummer
và Lazarus, thường theo sau "đức vua" như đoàn tùy tùng. Trong quyển sách về
Norton, William Drury viết, "Ông thường mang theo bầu không khí trang nghiêm