là phù hợp với góc nhìn của họ về chính họ. Họ muốn đời mình giống những câu
chuyện trong đầu, thế nên khi điều xấu xảy ra, họ cảm thấy chuyện đó rất ăn
khớp với con người mình; còn khi những khoảnh khắc vui vẻ xảy đến, đó lại là
những ngoại lệ nên bị bỏ qua.
Điều này đúng thậm chí đối với những ví dụ sâu sắc và đau khổ nhất về nỗi
buồn: những cuộc tự sát. Roy Baumeister, giáo sư Đại học Florida State, đã nhận
thấy rằng những người tự sát thường không ở trong hoàn cảnh tồi tệ nhất, nhưng
họ lại bị hụt hẫng với những kỳ vọng của bản thân. Cuộc sống của họ không
trùng khớp với những câu chuyện họ tự kể trong đầu. Cũng như những gì Frankl
đã chứng kiến tại Auschwitz, các câu chuyện quyết định ai là người bám trụ và ai
là người sẽ chạy thẳng đến hàng rào điện.
Vậy là không hề thiếu bằng chứng cho thấy các câu chuyện kiểm soát cách
chúng ta suy nghĩ, đồng thời dự đoán được thành công trong rất nhiều lĩnh vực.
Nhưng, vậy thì các câu chuyện vận hành như thế nào?
Nghiên cứu cho thấy những câu chuyện tưởng tượng sẽ làm cho chúng ta
"thuận xã hội" hơn — nghĩa là thân thiện và cho đi nhiều hơn. Nó làm cho góc
nhìn của chúng ta về thế giới ít chính xác hơn. Tôn giáo và những câu chuyện tự
huyễn giúp ta đương đầu; các bộ phim, chương trình truyền hình và những câu
chuyện khác cũng tương tự. Chuyện kể không những gắn bó với tâm trí mà còn
đeo một cặp kính màu hồng cho ta nữa.
Giáo sư Đại học George Mason kiêm tác giả sách bán chạy Tyler Cowen
cũng đồng ý với điều đó. Ông dẫn ra các nghiên cứu, trong đó, khi người ta được
yêu cầu mô tả cuộc sống của mình, họ thường dùng từ "chuyến đi" hay "trận
chiến" nhưng ít khi dùng từ "mớ bòng bong." Ông nói câu chuyện giống như một
bộ lọc, áp đặt trật tự lên một thế giới thường là hỗn loạn. Chúng xóa bỏ thông tin.
Chúng khiến hồi ức kém chính xác hơn. Chúng được dựng lên một cách có chủ ý,
nhưng cuộc đời lại thường chẳng như vậy.