CHƯƠNG
2
Alex Barr đang lục lọi khắp cái kho chứa đồ trên gác ngôi nhà ở New
Jessey để tìm chiếc áo vét mặc đi câu cá đã bị thất lạc từ lâu thì trông thấy
bộ quân phục. Tất cả chúng: Bộ quần áo màu xanh vải gabađin, áo choàng,
áo mưa, mũ (cả mũ lưỡi trai và mũ calô), thậm chí cả một số bộ quần áo
màu xám kinh khủng mà Ernie King quá cố đã quảng cáo là loại vải kaki
bạc màu rất đẹp. Chúng được treo sau chiếc màn che thoát khỏi đôi mắt của
anh - mà anh lại là kẻ nghiện lục lọi cái tầng gác mái của mình - trong suốt
những năm kể từ khi quân Nhật ngừng bắn và anh được trở về nhà.
Anh mỉm cười khi thấy chiếc mũ sỹ quan còn đầy đủ dải viền vàng trên
lưỡi trai.
“Ơn Chúa,” Alex Barr nói to - một thói quen đang ngày càng trở nên
phổ biến, và thường làm anh khó chịu, khi anhthôi không nghĩ về nó, “ơn
Chúa, mình thật sự mong quay về thời gian còn ước muốn chiếc mũ này
với tất cả sự hăng hái. Nó dường như chẳng dễ dàng gì vào cái lúc quân
Nhật phản bội mình bằng cách phủi tay nhanh đến như vậy.”
Anh đội chiếc mũ sỹ quan lên đầu và đi xuống nhà dưới tìm gương.
Chiếc mũ trông cũng hợp với bộ đồng phục nhà văn gồm áo nịt len và quần
anh đang mặc, vì vậy anh quay trở lại tầng gác và giũ tung bộ quần áo màu
xanh với đường viền vàng đã mờ trên hai ống tay áo. Anh mặc vội chiếc áo
khoác, cài kín khuy cổ chiếc áo nịt len màu xanh, giống một thuỷ thủ tàu
ngầm Đức, và liếc nhìn bóng mình trong gương, hếch chiếc lưỡi trai đỏm
dáng lệch sang bên. Chiếc áo khoác vẫn vừa vặn một cách dễ chịu.
“Ơn Chúa,” anh lại nói to. “Mình đã trở thành một sỹ quan bàn giấy điển
trai. Ai biết được? Nếu chiến tranh còn kéo dài vài năm nữa thì thậm chí
mình có thể trở thành một đô đốc hậu cần cũng nên.” Chẳng phải ngon xơi
đâu, anh nghĩ. Hải quân đã có quá nhiều đô đốc hậu cần mặt đầy trứng cá