Alex bước tới một trong những cái tủ, cúi xuống dưới những quyển
sách, và ấn vào một cái nút. Cánh cửa xoay lại, để lộ một tủ rượu, trong đó
có cả một hộp đá nhỏ,
“Em muốn gì nào? Brandy? Scotch?”
“Brandy. Với món đó anh không phải vật lộn với cục đá. Em phải nói là
anh biết cách sống đấy. Có nhạo không anh?”
“Chắc chắn rồi.” Alex bước lại một cái tủ bên cạnh và ấn một nút khác,
để lộ ra bộ máy quay đĩa hát. Cùng rađio và tivi. Anh chọn lấy vài đĩa trong
tủ, và bản Mùa thu ở New York lững lờ vang lên trong phòng,
“Con người của những nét đặc biệt, nếu không nói là tinh tế,” Barbara
lẩm bẩm và nhấp một ngụm rượu. “Và con quái vật trong góc kia, chiếc
bàn đen lớn thô tục kia, là chỗ một người vĩ đại thường ngồi viết những áng
văn vĩ đại mỗi khi anh ta ở nhà?”
“Đó là chỗ anh ta ngồi viết đấy. Một cái bàn tốt. Ai đó, anh không nhớ là
ai, đã tặng nó cho anh như một món quà. Một nhà điêu khắc nào đó. Anh
thấy khi anh dính vào cái máy đó một thời gian dài thì không phải óc anh
hay lưng anh bị đau mà là đôi chân khốn khổ của anh.”
“Với một nơi rộng thế này mà em không nhìn thấy phòng ngủ, hoặc bếp,
hoặc là em mong thế,” Barbara nói, “với tất cả những tiện nghi mà anh có ở
đây, anh còn cần gì cái trang ấp ở New Jersey nữa? Đây là thiên đường
rồi.”
Alex đi đi lại lại trước lò sưởi.
“Anh là một đứa trẻ thành phố” anh nói. “Anh có thành phố của anh. Nó
đấy. Đây là cuộc sống hưởng lạc - giữa thế kỷ mười bảy, đúng mốt phương
Đông, tất cả những cái vô nghĩa đó - nhưng lúc nào anh cũng phải được
nhìn thấy một cái cây thực mà không có con cá sấu nào trốn đằng sau. Anh
phải được thở hít bầu không khí chưa chứa đầy khí thải ô tô. Anh muốn
được thấy những chú vịt vẫy vùng, và những con hươu đi uống nước trong
bóng chiều chạng vạng. Chí ít là với một giờ ô tô anh có thể có được tất cả
những cái đó ở một nơi có cái tên không mấy dễ thương là Wykcoff, N.J,
chỉ ngang tuyến đường từ Suffern.”