nhau, những người đàn ông tai to mặt lớn hoặc mặc bộ đồ màu xanh thành
phố trang trọng với cà vạt lụa xám hoặc rõ ràng hơn là trong bộ đồ vải tuýt
ngày thứ bảy. Họ trả lời y như nhau về việc liên doanh, sản xuất, chế tạo
hoặc quảng cáo. Đối với Penny hình như ông bác Alex biết tất cả những
người có vai vế ở New York, và tất cả bọn họ đều vui mừng được nhìn thấy
ông và được gặp những người bạn của ông.
“Quỷ quái thật, khó mà ăn được trong cái lồng này,” Dinah nói. “Em
nghĩ anh đã nói gì đó về cái bàn hy vọng?”
“Con thì cho là mọi thứ đều tuyệt vời,” Penny thở dài. “Khi ở trường
bọn con thường lang thang đến các quán bình dân hoặc những quán mì xào
và một nửa thời gian là tới quán ăn Đức. Thật thú vị khi không phải nhìn
thấy quá nhiều những cái đầu húi cua. Con đã gần như quên mất rằng đàn
ông có đeo cà vạt.”
“Đừng có để con bị hư đi vì cuộc sống trí tuệ này,” mẹ cô nói. “Đi thôi,
hãy đi vệ sinh đi trước khi chúng ta lên đường.”
“Nó nằm ở góc bên tay trái,” Alex lơ đãng nói.
“Em biết là nó ở bên tay trái,” Di nói gay gắt. “Penny mới là người chưa
từng đến ”21“, chứ đâu phải em.”
Alex đi lại chỗ quầy bar để nói chuyện về bóng chày với Henry và Emil,
hai người phục vụ, và tự cho phép mình uống ly cô nhắc do một đám đàn
ông ngồi trong góc mời. Thật tốt là đã quay trở lại vùng đất riêng của mình,
anh thầm nghĩ. Anh đã chủ tâm lảng tránh những nơi quen thuộc cũ, những
chỗ mà anh chỉ tới cùng với Amelia hoặc những bạn làm ăn. Sự chào đón
hân hoan của mọi người không có gì là khó hiểu; anh đã không tới bar “21”
kể từ khi gặp Barbara Bayne.