CHƯƠNG
103
Alex vừa thong thả mặc quần áo, vừa nhấm nháp cốc rượu. Thật dễ chịu
được trở về nhà, được gặp lại Burrows - ông ấy thật là một người vui vẻ -
và được mặc vào người bộ quần áo không dính đầy mồ hôi. Anh đã sống xa
chiếc vali căng phồng quá lâu. Vải kaki ngụy trang là bộ trang phục làm
việc không thay đổi, nhưng đôi khi người ta vẫn thèm một chiếc sơmi trắng
và một chiếc quần phẳng phiu.
Tám tháng. Tám tháng trên mảnh đất mà người ta vẫn gọi là “châu Phi
máu lửa.” Nhưng anh không bị lừa. Tất cả đều bõ công. Chưa bao giờ anh
cảm thấy vui như lúc này, mặc dù anh đã nằm liệt giường vì những căn
bệnh mà người ta đã sinh ra trên cái thiên đường đầy rệp này. Anh đã sống
mà không có rượu gin và thuốc sốt rét, và sống đơn thuần bằng rượu gin
mà không có thuốc sốt rét. Nhưng anh vẫn viết khá tốt, và hạnh phúc trong
công việc của mình.
Anh nghĩ anh đã quá chậm trễ việc thư từ, và cảm thấy rất áy náy với
Jill. Nhưng dù sao khi người ta bận tối mắt tối mũi, hết bắt xe buýt địa
phương, vẫy máy bay thuê, lại tóm lạc đà, nhảy chồm chồm trên xe jeep,
thì người ta phải quan tâm tới cái mông và đôi cẳng hơn là đàn bà. Đàn bà,
dù là người đàn bà yêu dấu nhất mực đi nữa, sẽ chỉ còn là một cái bóng mơ
hồ trong ký ức, và thật lạ là ta chẳng nhớ gì đến họ. Song ngẫm kỹ thì cũng
chẳng lạ lắm; anh chẳng bao giờ nhớ họ nhiều hồi chiến tranh khi anh đang
lênh đênh trên biển hoặc mắc kẹt trên những hòn đảo với thời hạn dài vô
tận. Và người ta luôn có tình cảm đúng mực trái ngược với những tấm bưu
ảnh viết tay khi người ta đang đánh máy những đoạn văn xuôi chán ngắt.
Anh đã đọc và đã nghe kể về đàn ông da trắng và sự phụ thuộc của họ
vào đàn bà thổ dân vùng nhiệt đới. Anh đã lăn lộn khắp châu Phi, Bắc và
Nam, Đông và Tây. Những cái tên nhảy nhót trong đầu anh như tia lửa
điện: Mogadisu, Addis Ababa, Luanda, Ruanda Urundi, Luluabourg,