“Hồng,” Alex nói. “Cho hợp với mắt tôi.”
“Anh vẫn giữ lối nói ấy sao?” Barbara nói. “Anh vẫn giấu trái tim tan vỡ
sau những lời bông đùa?”
“Anh nghĩ thế. Có lẽ anh sẽ viết cho ngành truyền thông của em.”
Barbara Bayne xuống khỏi ghế.
“Em sắp dùng bữa trưa của một phụ nữ độc thân,” cô nói. “Em có một
cuộc hẹn ghi băng vào đầu giờ chiều. Anh có muốn nhập hội với các quí bà
- có nghĩa là em không?”
“Anh muốn lắm. Xin cho hai ly gin nữa ra bàn nhé, Zig, và nếu đức
Chúa có hiện ra, thỉ cứ bảo ông ta là chúng tôi đã đi ở ẩn rồi.”
“Xin vui lòng, ông Alex,” nói. “Rất mừng được gặp lại cả hai ông bà.”
“Ông ấy định ám chỉ gì vậy?” Barbara thì thào hỏi khi họ đã lui vào một
góc khuất.
“Sự thành thật. Em đừng gọi món ăn vội. Anh cần một cuộc nói chuyện
kiểu đàn ông với em. Em đúng là món quà mà Chúa gửi cho anh. Anh thật
đau lòng khi nghĩ đến Ben già đáng thương.”
“Em muốn nói rằng đó là một lời khen. Mặc dù thân hình em đang bắt
đầu chạy đua với ông bạn già đã quá cố của chúng ta. Kể cho Mẹ nghe xem
con bị đau ở đâu nào.”
“Anh có một vấn đề, anh đã tự lừa dối mình, và chuyện của anh là,“
Alex nói. Như như...”
“... anh không hề nghĩ rằng mình lại bị gọi là ông bô, cụ khốt và cụ cố, ”
Alex nói và lúc sáu giờ chiều hôm đó, sau khi Barbara xong cuộc ghi âm và
họ gặp nhau để uống một ly ở Eanglish Grill.
“Anh đã đi tìm một người vợ và mua được một cô con gái,” Barbara nói.
“Đây là hệ thống siêu thị Mỹ vĩ đại, cần làm điều gì đó. Cái anh muốn
trước tiên là một thính giả, sau nữa là một cố vấn, và anh xử sự như một cố
vấn trong trại hè của các cô gái. Đúng vậy không?”
“Đúng là thế,” Alex rầu rĩ. “Anh chỉ biết kể cho em thôi. Anh còn biết
kể cho ai nữa?”
“Chúng ta vẫn hay cãi nhau rất hăng. Em nghĩ đó là vì em yêu anh một
cách liều lĩnh - và em nghĩ anh cũng yêu em một cách liều lĩnh. Và chẳng