hàng hoá khác, bởi số thời gian lao động cần thiết để sản xuất và do đó
cũng để tái sản xuất ra thứ sản phẩm đặc biệt ấy", nghĩa là bởi thời gian lao
động cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt mà người công nhân
cần đến để tự duy trì mình trong trạng thái có thể lao động được, và để tiếp
tục nòi giống của mình. Chúng ta hãy giả định rằng những tư liệu sinh hoạt
đó, từ ngày này sang ngày khác, đại biểu cho một thời gian lao động mỗi
ngày là sáu giờ. Như vậy, nhà tư bản bắt tay vào kinh doanh của chúng ta,
người mua sức lao động cho công việc kinh doanh của mình, nghĩa là thuê
một công nhân, trả cho người công nhân đó toàn bộ cái giá trị hàng ngày
của sức lao động của người công nhân đó nếu như hắn trả cho người đó
một số tiền cũng đại biểu cho sáu giờ lao động. Một khi người công nhân
đã lao động sáu giờ cho nhà tư bản kinh doanh đó, thì anh ta đã hoàn lại
cho nhà tư bản toàn bộ số chi phí của hắn, tức là giá trị của sức lao động
trong một ngày mà hắn đã trả. Nhưng như thế thì tiền đã không biến thành
tư bản, đã không sản xuất ra giá trị thặng dư. Chính vì thế mà người mua
sức lao động cũng có một quan niệm hoàn toàn khác đối với tính chất việc
giao dịch mà anh ta đã tiến hành. Chỉ cần sáu giờ lao động là đủ để cho
người công nhân sống trong hai mươi bốn giờ, nhưng điều đó hoàn toàn
không ngăn cản người công nhân làm mười hai giờ trong hai mươi bốn giờ.
Giá trị sức lao động và giá trị mà sức lao động đó tạo ra trong quá trình lao
động là hai đại lượng khác nhau. Người chủ tiền đã trả giá trị hàng ngày
của sức lao động, vì vậy việc sử dụng sức lao động trong ngày đó, lao động
trong cả ngày đó, cũng thuộc về hắn ta. Cái tình hình là giá trị do việc sử
dụng sức lao động đó trong một ngày tạo ra lại gấp đôi giá trị hàng ngày
của bản thân sức lao động ấy, - tình hình đó là một điều đặc biệt may mắn
cho người mua, nhưng theo những quy luật trao đổi hàng hoá thì đó lại
hoàn toàn không phải là một sự bất công đối với người bán. Vậy, theo giả
thiết của chúng ta, hàng ngày người công nhân tốn kém cho người chủ tiền
một giá trị sản phẩm của sáu giờ lao động, nhưng mỗi ngày người công
nhân lại cung cấp cho người chủ tiền một giá trị sản phẩm của mười hai giờ
lao động. Số chênh lệch có lợi cho người chủ tiền là sáu giờ lao động thặng
dư không trả công, một sản phẩm thặng dư không trả công trong đó sau giờ