Cô vẫn lấy khăn thấm mũi và lông mi.
Tôi thì lúc ra về, tôi muốn ném hòn đá vào cửa kính nhà đó; thiếu chút
nữa, tôi đã ném vỡ kính vì năm phơrăng của ông ta.
Cưỡi ngựa!
Bác tôi đợi tôi ngày mai. Mấy người trong giáo khu của bác tôi đi chợ
tỉnh khi về sẽ cùng đi một đoàn; họ sẽ đưa tôi đi. Vừa hay một người trong
bọn họ vừa tậu được con ngựa. Tôi sẽ cưỡi con ngựa ấy và chúng tôi sẽ đi
thành đoàn về Sôđâyron.
Nơi hẹn nhau là nhà bác Mácxơlanh.
Bác Mácxơlanh mở quán ăn ở một phố ngoại ô. Quán bác nổi tiếng khắp
một vùng đừng kính mười dặm vì rượu vang trắng và thịt lợn nướng.
Lúc vào quán, người ta ngửi mùi âm ấm của phân và mồ hôi súc vật, bốc
ra như làn hơi tỏa từ chuồng ngựa. Trong phòng uống rượu, có mùi khé của
dấm đun sôi, tưới lên thịt nướng và ngâm vào rau mùi.
Lại có cả phô-mát xanh bốc hơi nồng nặc.
Thật là nhức mũi để thở, đầy mùi nồng, đầy tiếng động, đầy sự sống.
Người ta nói chuyện nhảm bằng tiếng địa phương và rót rượu vang cho
nhau đầy cốc.
Tôi nghịch một đôi đinh thúc ngựa cũ để lăn lóc trên bàn, và tôi nhấc thử
những chiếc gậy tày quấn da: một vài chiếc gậy có lịch sử được người ta kể.
- Ở đầu gậy có dính da mõ tòa.
... Đi thôi.
Tiếng bàn đạp chạm nhau khi người ta mang yên tới, tiếng dây da đen
đét, tiếng ngựa gậm hàm thiếc, tôi vẫn còn mang những tiếng đó trong tai,
với cái tên Báptítxtơ, anh chàng coi ngựa.
Tôi bé quá: người ta phải bế tôi lên, và buộc ngắn dây bàn đạp lại.
Ngắn nữa, ngắn nữa! Chân tôi ngắn lắm. Tôi đã ngồi yên vị! Người ta
trao cương cho tôi cầm.
“Mày sẽ làm thế này này, thế nọ. Mày đã cưỡi ngựa lần nào chưa?
- Chưa.
- Không sao. Đừng sợ!”