Tôi đã ăn thử bánh mì quá cay đắng ở gia đình nhà tôi, tôi đã bị hành hạ
quá nhiều ở nhà nên những tiếng kêu đó không thể không thể làm kinh động
trái tim tôi.
Rồi trong tưởng tượng tôi xé toạc những bộ quần áo may quá xấu tôi vẫn
phải mặc, và bao giờ cũng làm mọi người cười; tôi thay tất cả bằng bộ đồng
phục của bọn áo xanh
[95]
tôi chui vào những bộ đồ rách rưới của những
người ở Xămbrơ và Mơdơ.
Không còn bị mẹ, cha đánh đòn nữa, mà bị kẻ thù xử bắn, và chết như
Bara
[96]
. Nhân dân muôn năm!
Chính những bà con đeo tạp-dề da, khoác áo thợ và mặc quần vá, là nhân
dân trong những quyển sách người ta vừa cho tôi mượn và tôi chỉ yêu
những người ấy thôi vì chỉ có những người nghèo đối xử tốt với tôi, hồi tôi
còn bé.
Bây giờ tôi nhớ lại những lời mà tôi đã nghe thấy trong những tối thức
khuya, những bài hát mà tôi đã nghe, thấy trên đồng ruộng, những tên
Rôbexpie hoặc Buônapactơ ở những điệp khúc bằng tiếng địa phương; và
một cụ già, già lắm với bộ tóc bạc phơ, sống một thân một mình ở đầu làng
mà người ta gọi là ông cụ điên. Một đôi khi cự chụp lên mái đầu bạc một
chiếc mũ trùm đầu đỏ, và nhìn đăm đăm vào đống tro tàn.
Tôi nhớ tới cái nhà ông mà người ta gọi là tên xăngquylốt
[97]
, và là người
không dung được bọn thầy tu. Ông ta đã bước ra khỏi nhà hôm bà vợ ông,
trước khi chết, đã gọi đến đức Chúa lòng lành.
Tôi cũng nhớ tới những cử chỉ mà người ta đã làm trước mặt tôi, vừa vỗ
vào báng súng, hoặc vừa chĩa nòng, với cái nhìn tức giận, về phía lâu đài.
Và tất cả máu huyết của đứa con một người mẹ nông dân, đứa cháu của
những người thợ, chồm lên trong mạch máu một người thông thái có học
thức mặc dù tôi không muốn là có học thức bất đắc dĩ!
Tôi ngứa ngáy muốn viết thư cho chú Jôdép và chú Sađơna... “Chú hãy
tin rằng cháu không quên các chú, rằng cháu thích ở với các chú, ở bên cái
cầy hoặc ở bên chuồng bò, hơn là ở nhà nói tiếng La-tinh. Nhưng nếu các
chú đi đánh bọn quý tộc, các chú nhớ gọi cháu!”
“Ít lâu nay, con có vẻ phấn chấn thế”, mẹ tôi hỏi.