Nhưng mỗi lần đi qua mặt bác Hai Ria, tôi dừng lại để nhìn bác; tôi làm
quen dần, tôi lượn đi lượn lại xung quanh hộp đánh giầy của bác; có lần bác
mời tôi rất to:
Đánh giầy chứ, ông?
Tôi suýt ngất.
Tôi không có hai xu - mãi sau đến ở một thành phố khác, tôi mới gom
góp được số tiền ấy - và tôi đành phải lắc đầu, làm hiệu trả lời, với cái cười
nhạt như của một người phụ nữ muốn nói: “người ta cấm em yêu!”
Cuối Brơi là xưởng thuộc da với những nắm than bùn, những bộ da phơi,
và cái mùi chua loét của nó.
Tôi rất thích cái mùi ấy, lưng lửng, cay như tương cải, xanh ngắt - nếu có
thể nói được là xanh, - như những bộ da đang thối inh ỉnh trong chỗ ẩm
thấp hoặc đang phơi ráo mồ hôi ngoài nắng.
Sau này, khi trở lại thành phố Puy, từ rất xa, tôi đã đoán ra và ngửi thấy
mùi của xưởng thuộc da ở Brơi. Mỗi lần gặp một xưởng thuộc da trên
đường tôi đi, từ cách xa hai dặm tôi đã đánh hơi thấy, và tôi cảm kích
hướng mũi về phía đó.
Tôi không còn nhớ con đường, tôi không biết tôi đã qua những đâu, và
thành phố chấm dứt như thế nào.
Tôi chỉ còn nhớ là tôi men theo một cái hào hôi thối, và tôi băng qua một
đám cây cỏ không thơm tho gì.
Tôi tới xứ sở của những bác làm vườn. Xấu xí làm sao, xứ sở của các bác
trồng rau!
Tôi yêu những bãi cỏ xanh, dòng nước chảy, mầu xanh tươi của các bờ
rào bao nhiêu, tôi càng kinh tởm bấy nhiêu cái vùng quê này, cây thì thấp lè
tè, cỏ thì nhợt nhạt mọc như râu ông già, trên đất cát hoặc đất bùn, ở rìa
thành phố.
Vài chiếc lá vàng úa, khô, lở láy, rũ xuống với mầu sắc của vành tai
người ho lao.
Người ta đã làm ô uế tất cả mọi chỗ, và chốc chốc người ta lại khua lên
từng đám sâu bọ đang đánh chén một con chó chết.
Không có bóng mát!