niên của mũi Chêljuskin, vì thế, sáng hôm sau, thấy chẳng hy vọng có mặt
trời lên, "Aljaska" đã được lệnh nhổ neo.
Sau khi bỏ lại vịnh Taimưrsk ở phía nam, "Aljaska" đã đi về phía Tây và
chạy suốt ngày suốt đêm không nghỉ. Cuối cùng, sáng 18, nó ra khỏi vùng
sương mù và đến vùng nắng có mây quang. Lúc giữa trưa tàu được lệnh đỗ
lại. Nhưng đúng lúc ấythủy thủ trực gác báo cáo: ở phía tây nam có cánh
buồm xuất hiện.
Sự xuất hiện của một cánh buồm ở vùng biển heo hút này là sự kiện khác
thường, không thể không thu hút sự chú ý đặc biệt của mọi người. Êrik lập
tức leo lên "tổ quạ" và dùng ống nhòm bắt đầu quan sát chiếc tàu vừa được
phát hiện. Chiếc tàu có phần chìm khá sâu, dây nhợ như của thuyền buồm,
có ống khói, nhưng hiện không thấy có khói lên, bởi vì tàu không chạy
bằng hơi nước.
Chàng thuyền trường trẻ tái nhợt đi vì hồi hộp, tụt vội xuống boong.
- Hình như đó là "Albatros" thì phải - Chàng nói với bác sĩ.
Đoạn Êrik ra lệnh cho đốt lò ngay lập tức.
Mười lăm phút sau đã bắt đầu thấy rõ "Aljaska" sẽ đuổi kịp chiếc tàu kia vì
thân của nó mắt thường cũng đã nhìn thấy được. Nó chạy bằng buồm trong
khi gió rất yếu và làm thành một góc nhọn so với hướng của "Aljaska".
Nhưng bỗng nó thay đổi tốc độ, khói đặc từ ống khói đã cuồn cuộn bốc lên
để lại phía sau một vệt đen dài. Bây giờ nó chạy hết tốc lực về cùng một
hướng với "Aljaska".
- Không còn nghi ngờ gì nữa! Đó là "Albatros"! - Êrik lẩm bẩm.
Và chàng ra lệnh cho thợ máy chính tăng thêm hơi, "Aljaska" đã chạy với
tốc độ mười bốn hải lý. Một phần tư giờ sau, nó lên mười sáu hải lý giờ.
Chắc chắn là chiếc tàu đang bi truy đuổi không thể tăng được tốc độ như
vậy, vì "Aljaska" đã bắt đầu đuổi kịp nó. Sau nửa giờ, "Aljaska" đã tiến gần
"Albatros" đến mức đã có thể phân biệt được vị trí các cột buồm, đuôi nước
rẽsau tàu, người đi lại tất bật trên boong, và kế đến là hoa văn trang trí trên
đuôi tàu, thậm chí có những chữ tạo nên từ "Albatros" nữa.
Êrik ra lệnh kéo cờ Thụy Điển lên. Lập tức bên "Albatros" cũng treo ngay