mã.
Mỗi ngày hai hoặc ba lần các nhóm thợ săn mang theo những chiếc lao,
xiên và súng, cùng đàn chó giống Grơnlan lên bãi băng và vây bắt những
con vật ở biển đang lim dim ngủ gần mặt nước. Hải mã bị họ bắn vào tai,
sả nguyên con, tách mỡ ra, chất lên xe trượt tuyết và chở về tàu “Aljaska”
với sự hỗ trợ của bầy chó. Việc săn bắn rất nhẹ nhàng và kết quả đến nỗi
không đầy một tuần các kho đã đầy ắp mỡ hải mã.
Trôi theo bãi băng về hướng Tây Nam. "Aljaska" đã đạt được đến kinh độ
40 dưới vĩ tuyến 74 và như vậy là nó đã để lại Đất Mới ở phía sau, sau khi
đi vòng qua đó từ phía Bắc.
Dưới tác động của ánh nắng mặt trời, đến thời điểm này, hòn đảo băng trôi
đã giảm đi gần hai lần, phần còn lại của nó bị các vết nứt và các rãnh chia
cắt nhỏ ra, rõ ràng đang dần dần tan rã hết. Đã sắp đến cái giờ phút bãi
băng khổng lồ chỉ còn là một tảng băng trôi. Êrik không đợi chờ đến lúc ấy.
Chàng ra lệnh cuốn neo và hướng mũi tàu về phía Tây.
Mỡ hải mã được đưa thẳng vào lò của "Aljaska", trộn thêm một ít than bụi,
trở thành thứ nhiên liệu tuyệt vời, nhược điểm duy nhất của nó là mau làm
tắc ống khói, do vậy mà ngày nào ống khói cũng phải thông. Còn nói về cái
mùi riêng biệt của mỡ hải mã, chắc chắn nó làm cho các hành khách Địa
Trung Hải khó chịu, nhưng đối với những thủy thủ Thụy Điển và Na Uy thì
hầu như nó không gây sự bất tiện nào.
Lượng dự trữ nhiên liệu dồi dào đã giúp cho "Aljaska" chạy lò hơi đến phút
chót và mặc dù bị ngược gió, nó vẫn nhanh chóng vượt qua khoảng cách
giữa nó với các biển châu Âu. Ngày 5 tháng 9 “Aljaska” đã nhìn thấy
Norđkap Ở Na Uy. Vì không thật cần thiết nên thậm chí nó đã không ghé
vào Trômsiđ, mà vòng qua bán đảo Scanđinav, lại đi ngang Skaghêrak và
trở về nơi xuất phát.
14 tháng Chín, "Aljaska" đã thả neo ở Xtôckhôm, ngay vùng nước mà ngày
10 tháng 2 đầu năm nó đã từ đó ra đi.
Như vậy là dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng hai mươi hai tuổi, cuộc hành
trình vòng quanh thế giới đầu tiên trên vùng biển Bắc cực đã được hoàn
thành sau bảy thảng bốn ngày.