máy quan liêu được tổ chức một cách chặt chẽ, trong đó mỗi người, trừ
những quan chức cao cấp nhất, đều là một nhân viên của bộ máy, có trách
nhiệm thực thi vô điều kiện các chỉ thị của chính quyền trung ương, dù rằng
anh ta, với vai trò của một cử tri, có thể tham gia vào quá trình soạn thảo ra
các chỉ thị như thế.
Một nhà nước xã hội chủ nghĩa kiểu như thế khác hẳn với những xí
nghiệp quốc doanh, bất kể quy mô nào, mà chúng ta thấy ở châu Âu, đặc
biệt là Đức và Nga, trong mấy chục năm gần đây [Ý nói nước Nga trong
giai đoạn kinh tế mới (NEP) – chú thích của bản tiếng Nga - ND]. Tất cả
các xí nghiệp này đều phát triển bên cạnh những xí nghiệp do các nhà tư
sản nắm giữ và quản lí, và họ nhận được từ những xí nghiệp như thế những
động lực khác nhau củng cố cho hoạt động của mình. Ví dụ như những
tuyến đường sắt do nhà nước vận hành được những nhà sản xuất đầu máy,
toa xe, thiết bị truyền tín hiệu và những thiết bị khác cung cấp máy móc đã
từng được sử dụng trên những tuyến đường nằm trong tay tư nhân. Như vậy
là, xí nghiệp quốc doanh được khuyến khích cải tiến để theo kịp về mặt
công nghệ và phương pháp quản lí kinh doanh đang diễn ra xung quanh.
Ai cũng biết rằng các xí nghiệp quốc doanh và xí nghiệp địa phương nói
chung đều thất bại: chúng vừa tiêu tốn nhiều tiền của vừa thiếu hiệu năng,
và phải lấy thuế ra để trợ cấp thì chúng mới tiếp tục hoạt động được. Dĩ
nhiên là trong những lĩnh vực mà doanh nghiệp nhà nước nắm vị thế độc
quyền – ví dụ như phương tiện giao thông công cộng, chiếu sáng, nhà máy
điện – thì sự thiếu hiệu quả không phải bao giờ cũng được thể hiện dưới
dạng thiệt hại về tài chính khả thị. Trong một số hoàn cảnh người ta còn có
thể che giấu bằng cách để cho doanh nghiệp độc quyền nâng giá sản phẩm
và dịch vụ của nó lên cao đến mức có thể làm cho doanh nghiệp có lời mặc
dù việc quản lí nó có phi kinh tế đến mức nào. Phương pháp sản xuất xã hội
chủ nghĩa có năng suất lao động thấp, nhưng được biểu hiện theo một cách
khác và khó nhận ra hơn. Nhưng bản chất vấn đề thì vẫn thế.