bỏ tiền thuê nhà. Hậu quả là, ví dụ như ở thành phố Vienna, mặc dù từ đầu
Thế chiến I số người sống trong thành phố đã giảm đáng kể, và chính quyền
địa phương đã xây dựng hàng ngàn ngôi nhà mới nhưng hàng ngàn người
vẫn không tìm được nhà ở.
Xin xem xét một ví dụ nữa: quy định tiền lương tối thiểu.
Khi những sắc luật của chính quyền hay những biện pháp quá khích của
công đoàn không can thiệp vào quan hệ giữa người sử dụng lao động và
người lao động, thì người sử dụng lao động sẽ trả cho mỗi loại công việc
tiền lương đúng bằng sự gia tăng giá trị mà công việc đó tạo ra trong quá
trình sản xuất. Tiền lương không thể cao hơn, vì nếu cao hơn thì người sử
dụng lao động không thể có lời, và anh ta sẽ buộc phải ngừng dây chuyền
sản xuất thua lỗ. Nhưng tiền lương cũng không thể xuống thấp hơn vì công
nhân sẽ chuyển sang các ngành sản xuất khác, nơi họ được trả lương cao
hơn, và người sử dụng cũng phải ngừng sản xuất vì thiếu nhân công.
Vì vậy mà trong nền kinh tế bao giờ cũng có một mức lương sao cho
mỗi người lao động đều tìm được việc làm, và mỗi nghiệp chủ, người muốn
giữ cho doanh nghiệp của mình có được lợi nhuận với mức lương như thế,
có thể tìm được người lao động. Các nhà kinh tế học gọi đó là mức lương
"tĩnh" hoặc "tự nhiên". Mức lương này sẽ tăng nếu số lao động giảm trong
khi những điều kiện khác vẫn giữ nguyên, và sẽ giảm nếu lượng vốn tương
ứng với lượng lao động cần thiết để sản xuất giảm trong khi những điều
kiện khác vẫn giữ nguyên. Tuy nhiên, cần phải ghi nhận rằng nói một cách
đơn giản về "các mức lương" và "lao động" là không hoàn toàn chính xác.
Lao động khác nhau rất nhiều về chất lượng và số lượng (tính theo đơn vị
thời gian), các mức tiền lương cho lao động cũng thế.
Nếu nền kinh tế cứ giữ nguyên ở trạng thái dừng (stationary) thì trên thị
trường lao động - nếu nó không bị chính phủ và tổ chức công đoàn can
thiệp - sẽ không có người nào bị thất nghiệp. Nhưng trạng thái dừng của xã
hội chỉ là một mẫu hình tưởng tượng của lí thuyết kinh tế, là một thủ thuật