sự can thiệp của chính phủ vào quá trình phân công lao động quốc tế, từng
nước sẽ tìm được vị trí của mình trong nền kinh tế thế giới bất chấp những
điều kiện sản xuất của nó so với những nước khác. Dĩ nhiên là những nước
có điều kiện sản xuất thuận lợi sẽ giàu hơn những nước khác, nhưng đấy là
điều mà biện pháp chính trị không thể thay đổi được. Đấy đơn giản chỉ là
kết quả của sự khác biệt trong những nhân tố của quá trình sản xuất.
Chủ nghĩa tự do trước đây đã gặp phải tình huống như thế, và nó đã trả
lời bằng lí thuyết cổ điển về thương mại tự do. Nhưng kể từ thời Ricardo,
tình hình thế giới đã thay đổi rất nhiều, và vấn đề mà lí thuyết về thương
mại tự do phải giải quyết trong vòng sáu mươi năm trước khi nổ ra Thế
chiến khác hẳn với vấn đề mà nó phải giải quyết hồi cuối thế kỉ XVIII và
đầu thế kỉ XIX. Những rào cản, ngăn chặn việc luân chuyển tự do vốn và
lao động đầu thế kỉ XIX đã phần nào được dỡ bỏ. Trong nửa sau thế kỉ
XIX, các nhà tư sản dễ dàng đầu tư vào nước ngoài hơn thời Ricardo còn
sống rất nhiều. Luật pháp và trật tự đã được thiết lập trên nền tảng vững
chắc hơn; hiểu biết về nước ngoài, phong tục và truyền thống cũng nhiều
hơn; và các công ty cổ phần tạo điều kiện cho người ta chia rủi ro của
những công ty ngoại quốc cho nhiều người, và như vậy cũng làm cho rủi ro
của mỗi người giảm đi. Dĩ nhiên là sẽ cường điệu khi nói rằng đầu thế kỉ
XX chuyển vốn từ nước này sang nước kia cũng dễ dàng như dịch chuyển
giữa các vùng trong một nước. Chắc chắn vẫn còn một số khó khăn, nhưng
giả định rằng đồng vốn phải được giữ trong biên giới quốc gia mỗi nước đã
không còn giá trị. Lao động cũng tương tự. Trong nửa sau thế kỉ XIX, hàng
triệu người đã rời bỏ châu Âu để tìm vận may ở hải ngoại.
Vì những điều kiện mà lí thuyết thương mại tự do cổ điển giả định, mà
cụ thể là sự bất động của vốn và lao động đã không còn tồn tại cho nên sự
khác biệt giữa hậu quả của thương mại tự do trong nội thương và ngoại
thương cũng không còn giá trị. Nếu vốn và lao động có thể di chuyển một
cách tự do từ nước nọ sang nước kia như giữa các vùng trong mỗi nước thì
sẽ không còn cơ sở biện minh cho việc phân biệt các tác động của nền