sau khi đem trả ông cái bản nháp đó, đã tìm đến phòng trọ đưa tạ ông ba
chục quan tiền kẽm: “đại huynh lúc không may lâm bệnh rời bãi trường,
phải bỏ lalị trên cỏ bản nháp bài kinh nghĩa. Là một người tự biết là bất tài,
tiểu đệ đã mạn phép hiền huynh điền vào quyển của đệ những lời gấm hoa
đanh thép bị bỏ phí kia. Nay được vào kỳ đệ nghị, gọi là có món quà mọn
gửi lại, xin đại huynh nhận cho”.
Biết là có oan hồn hiện lên cố phá không cho mình mở mặt với thiên
hạ, ông Đầu Xứ Anh để tâm tra cứu lại chuyện nhà. Thì ra, lúc sinh thời, cụ
Huấn đẻ ra ông đã phạm vào một việc thất đức. Hồi còn mồ ma cụ Huấn,
cụ đã mang lấy trách nhiệm tinh thần về cái chết của một người nàng hầu
tài hoa nổi tiếng một thời. Người thiếp đó, lúc tự ải, có mang được sáu bảy
thán. Cái ân oán ấy còn theo đuổi ông mãi, nếu ông cú còn lều chiếu ở cửa
trường thi. Đấy là lời người thiếp đó lúc ốp vào con đồng khi phụ lên. Nàng
xưng là cô và gọi ông Đầu Xứ Anh là nó, cười sặc sụa và giọng nói the thé.
“nó còn đi thi, cô còn báo mãi. Các người hỏi cô muốn những gì ấy à! Cô
muốn, cô muốn nó phạm húy, cho nó bị tội cả nhà kia. Nhưng nhà nó cũng
có một ông mãnh thiêng lắm, cô không tàn hại nó được như lòng cô muốn.
Nên nó chưa viết phạm đến tên các vua”. Con đồng lắc lư nói có thế. Có
gặng hỏi thêm thì chỉ khóc hu hu rồi lại lăn ra mà cười như bị ma ếm. Ông
Đầu Xứ thấy lạnh đến tủy xương sống. Và đâm ra lo nghĩ từ ấy.
Khoa thi này, ông đành nhẽ không ra nữa, để ông Đầu Xứ Em nộp
quyển thôi, thử xem hồn oan có còn đòi báo nữa không. Ông tin ở học lực
người em ruột, sao cũng ấy về cho làng Ngoạt, có hèn ra cũng được cái Cử
nhân. Khoa cuối cùng, thêm phần luận quốc ngữ và phép đo lường tính
theo lối học mới, nhưng chủ nó thông minh vốn thiên bẩm và gần đây tân
thư và toán pháp đọc cũng nhiều, cũng khong lấy gì làm ngại lắm. Nhưng
mà phúc phận con người ta, ở một người thi chữ Hán, biết sao mà định
trước được.