quốc ngữ trở thành phương tiện truyền thông của toàn dân, như thể họ dùng
chữ quốc ngữ không phải vì lòng yêu nước và bất chấp tự ái dân tộc.
Phải đặt vấn đề chữ quốc ngữ vào trong trận tuyến tranh đấu giữa ta và
địch, và vào từng thời kỳ của trận tuyến tranh đấu đó, mới có thể nhận định
một cách trung thực chống việc dùng chữ quốc ngữ ở thời kỳ này là đúng,
là yêu nước, và dùng chữ quốc ngữ ở thời kỳ kia là đúng, yêu nước và do
đó chấp nhận dùng chữ quốc ngữ ở thời kỳ phải chống là thỏa hiệp, đầu
hàng, và chống ở một thời kỳ phải dùng là cố chấp, hẹp hòi.
Thời kỳ Đồ Chiểu, khi Pháp mới chỉ chiếm Nam kỳ, tình hình toàn
quốc chưa ngã ngũ, đòi hỏi lúc đó là nêu cao tinh thần kháng chiến, bất
khuất chưa thể và cũng chưa phải lúc phân biệt khí giới của địch với địch.
Nhưng sau đó, khi đất nước đã hoàn toàn bị xâm chiếm, những khởi nghĩa
thuần-túy quân sự đều thất bại, cuộc kháng chiến chống Pháp phải được
chuyển hướng sang bình diện văn hóa giáo dục như một chuẩn bị cho
những khởi-nghĩa võ trang về sau. Nói cách khác, muốn chống Pháp có
hiệu nghiệm phải duy tân trước đã. Tình thế mới đòi hỏi một đường lối
tranh đấu mới. Cũng chính những nhà nho trước đây đã tích cực tham dự
các cuộc khởi nghĩa võ trang bây giờ chủ trương Duy-tân, và trong chiều
hướng chiến lược mới, đoạt lại chữ quốc ngữ, đang ở phía kẻ thù, biến
thành lợi khí phục vụ dân tộc, khêu gợi ý thức quốc gia. Đó là đường lối
của Đông Kinh Nghĩa-thục hồi 1907. Kể từ đó, chữ quốc ngữ được những
người yêu nước chấp nhận và dần dần trở thành chữ viết của toàn thể dân
tộc, không phải là mặc dầu sự chống đối của những người đại diện cho ý
thức dân tộc mà nhờ sự chấp thuận, cổ võ của họ.
2. SỰ CHỐNG ĐỐI CỦA THÂN HÀO NHÂN SĨ THÂN PHÁP
Không phải chỉ giới Sĩ phu chống việc dùng chữ quốc ngữ, mà cả
những người chấp nhận thuộc địa, chính sách trực trị, dĩ nhiên vì những lý
do khác.