Đó là chỗ kẹt, bế tắc mà thực dân nhận ra sau một thời gian thi hành
đường lối cưỡng bách dùng chữ quốc ngữ ở các trường học. Cultru đã nhận
định : « chỉ lấy việc dạy chữ Pháp và chữ quốc ngữ làm nền tảng cho việc
giáo dục là thủ tiêu giáo dục, tinh thần và tâm hồn không được cải tiến chỉ
nhờ việc biết viết, biết đọc một thứ tiếng, bằng lòng như vậy là tạo ra bọn
người vô học, vì biết đọc biết viết làm gì nếu không hiểu bản văn đọc…
Việc dạy chữ quốc ngữ và tiếng Pháp, như đã áp dụng trong những năm
đầu thuộc địa đã hoàn toàn sao lãng việc phát huy trí thức và luân lý người
bản xứ, và do đó đã đẩy phần lớn 300.000 trẻ em Nam kỳ, đã đi qua các
trường học của chúng ta vào một tình trạng ngu ngốc thực sự ».
Những bản phúc trình về tình trạng nhà trường đều nhất trí về sự
ngừng trệ, thất bại của việc học chữ quốc ngữ. Rất ít người chịu học, những
người học rồi cũng không làm được trò trống gì vì họ thiếu văn hóa, kiến
thức, nên ngay cả việc thông ngôn họ cũng không làm được.
Trước tình trạng đó, thực dân buộc phải xét lại chính sách. Đồng ý vẫn
giữ đường lối đồng hóa, nhưng không phải chốc lát biến cả một dân tộc
thành Tây được : suy nghĩ tập quán theo Tây. Không thể thay thế ngay bằng
tiếng Pháp, văn hóa Pháp, nhưng lại xóa bỏ văn hóa cổ truyền dựa trên nho
học. Người ta đã sai lầm khi để một trống rỗng như vậy trong giáo dục học
chính : chỉ học chữ, học tiếng mà không học nghĩa.
Vậy đành phải tạm thời dùng lại văn hóa cổ truyền để cho việc học có
kiến thức, đạo lý, nhằm giữ được trình độ đạo đức của dân chúng khỏi sa
sút và đào tạo những viên chức quan lại biết dựa vào đó mà dạy dỗ cai trị
dân. Đó là nguyên nhân việc đề ra công tác : phiên dịch những cổ văn (Hán
Nôm) ra quốc văn, mà những học giả Pháp và Việt trong các trường Thông
ngôn sẽ đảm nhận.
Đến đây Thực dân mới nhận thấy việc thay đổi một chữ viết thì dễ
nhưng thay đổi cả một xã hội, một pháp luật, một tâm tình không phải là
chuyện có thể làm trong chốc lát như Đề đốc Dupré đã thú nhận trong thư
gởi cho Tổng Trưởng Hải Quân ngày 6.11.1873 :