Những trường học quái đản đó ở các làng được ích gì nếu không phải
là để duy trì cái óc lạm bổ và những yêu sách quấy nhiễu lẫn nhau trong
cái xứ này. Dù chúng ta có tinh thần bài ngoại thế nào đi nữa phải chăng
chúng ta hy vọng rằng có thể thay đổi trong vài năm với sự trợ giúp của
một vài người An-nam trẻ tuổi chạy theo chúng ta nhưng chẳng biết gì,
tiếng nói và nền giáo dục của hàng bao triệu người ? Sao được ?
Theo ý tôi, không nên vội vã hối thúc đi tới một kết quả như vậy mà tôi
chỉ yêu cầu lập một học chánh chính thức ở các quận huyện tỉnh và được tự
do. Còn về phương diện tuyên truyền và dạy học, tôi sẽ cho in đủ mọi loại
sách tốt, sách dịch bằng cả chữ quốc ngữ lẫn chữ nho ».
(Sàigòn 5.1.1873)
D. NHỮNG HỆ LUẬN CÓ THỂ RÚT RA
Qua những sự việc trình bày trên, chúng ta có thể rút ra mấy hệ luận :
1. Việc đưa chữ quốc ngữ từ lãnh vực tôn giáo sang lãnh vực xã hội
(chính trị, văn hóa, giáo dục), việc truyền bá thứ chữ đó (trong trường học,
giấy tờ chính thức, báo chí) là do thực dân Pháp chủ trương, khởi xướng,
cưỡng bách bằng những nghị định, chứ không phải do những nhà văn tiên
phong như Pétrus Ký, Paulus Của… Ngay cả bản dịch ra chữ quốc ngữ một
tác phẩm văn chương lớn cũng là do một người Pháp làm đầu tiên
(Janneau) và do đó nếu cứ phải gọi là tiên phong thì thực dân đã đi tiền
phong chớ không phải những người Việt Nam theo họ.
Những phúc trình của Luro, Philastre, Legrand de la Liraye cũng cho
thấy chính thực dân đề xướng việc phiên dịch ra chữ quốc ngữ cổ văn (Hán
văn, Nôm) việc truyền bá tư tưởng Tây phương, vì những lý do mục đích
không liên hệ gì đến mục tiêu làm văn hóa, bồi bổ quốc văn.
2. Chữ quốc ngữ, văn quốc ngữ xuất hiện sớm nhất ở Nam Kỳ, nhưng
rơi vào tình trạng ngưng đọng, nghèo nàn sau Pétrus Ký không phải vì mấy
nhà văn đó làm cách mạng văn hóa quá sớm và đất Nam kỳ thiếu khả năng