thú hoảng hốt. Một phần đám đông tách ra tham dự cuộc săn người, vừa
chạy vừa hét: “Nó kia kìa! Ở dưới đồi! Bắt lấy nó!”.
Thình lình cánh cửa lớn của ngôi nhà mở rộng, và tôi thấy mục sư Shin
đứng đó, trong khung ánh sáng lờ mờ phía sau ông. Một mụ đàn bà hét:
“Judas!”, và những tiếng gầm dội lại: “Đồ Judas! Đồ bán Chúa!” vang lên
từ đám đông. Tôi chạy đến gần mục sư Shin cố đẩy ông vào lại trong nhà.
Ông nói một cách tuyệt vọng: “Đại úy Lee, tôi van ông, để tôi ra. Hann đấy,
anh ấy vừa chạy ra ngoài. Tôi phải tìm anh ấy!”.
“Ông vào nhà lập tức! Tôi sẽ đi tìm ông ấy cho. Trời ơi, ông vào trong
ngay đi!”.
Park chạy đến, giờ anh cầm một khẩu carbine. Tôi bảo anh tôi phải chạy
theo mục sư Hann: “Cậu ở lại đây nhé”. Một viên Trung sĩ phụ trách đám
Quân cảnh chạy đến: “Thưa Đại úy, có chuyện gì ở đây thế này? Mọi cuộc
tụ họp đông người vào giờ này đều trái pháp luật. Tôi sẽ phải bắt hết họ
hoặc sẽ phải nổ súng vào họ, nếu họ không chịu giải tán”. Tôi bảo Trung sĩ
cố gắng nhẫn nại và cố kiếm cách giải tỏa đám đông. Anh ta nói: “Tôi đã
cho gọi thêm người và xe. Rồi sẽ trị được cái bọn khốn này”.
Đá vẫn bay vù vù trong đêm tối, đập xảng xảng vào tường và những tấm
kính cửa sổ. Kính vỡ, Park chĩa khẩu carbine bắn lên trời. Tôi bảo mục sư
Shin: “Vào trong đi!”. Tôi xô ông vào và đóng cửa lại. Đoạn tôi chạy
xuống chân đồi đến chỗ để chiếc xe Jeep. Hai người đàn ông chạy qua
trước mặt tôi. Tôi gọi theo họ: “Người đàn ông khi nãy đâu rồi? Các ông đã
làm gì hắn?”. Một người nói vọng lại: “Chúng tôi choảng hắn một trận”.
Người kia cũng la lên: “Nhưng hắn chạy mất rồi”.
Tôi tìm khắp ngọn đồi nhưng không thấy mục sư Hann đâu cả. Những
chiếc cam-nhông rú ga chạy lên đồi, ánh đèn xuyên thủng bóng tối. Thêm
một tiểu đội Quân cảnh nhập bọn với đám trước và lính gác của chúng tôi.
Đám đông tan vỡ; nhiều người cố chạy, nhưng đều bị hàng rào lính chặn
lại.
Trong khoảng mười phút mọi sự đều yên tĩnh.
Tôi vẫn không tìm được ông Hann.