Park cùng tôi lùng kiếm khắp vùng một lần nữa. Chúng tôi lái xe chậm
chậm xuống đồi, dừng lại đây đó lắng nghe từng tiếng chân, lục soát từng
ngõ hẻm giữa những căn nhà vắng lặng. Chúng tôi hỏi năm, sáu đội tuần
tiễu; vẫn không thấy gì. Cuối cùng, chúng tôi đã tới giữa đường cái tối tăm
và hoang vắng.
Park đề nghị: “Ta nên trở lại ngôi nhà đó”.
Tôi lắc đầu: “Đi, chúng mình đi. Thử tìm ở nhà thờ cha cậu”.
“Sao? Sao lại ở đó? Làm sao ông ta có thể chạy tới đó?”
“Tôi sẽ giải thích sau”.
Tôi không còn nhớ nổi Park làm thế nào mà lái xe suốt khoảng đường đó
nhanh đến như vậy và không bị lính tuần tiễu bắt ngừng lại một lần nào.
Chúng tôi tìm thấy mục sư Hann trong ngôi nhà thờ đổ nát, mặt đầy thương
tích, miệng sưng vù và bê bết máu, nằm mê man bất động trên bậc cấp
trước ngôi nhà thờ vắng lặng và trơ trọi.
***
Vào lúc Park đưa mục sư Shin và Tuyên úy Koh đến Tổng hành dinh của
chúng tôi thì tôi cho đem mục sư Hann vào phòng cứu thương đặt nằm trên
giường sắt phủ chăn kín người. Tôi đã gọi xe cứu thương mang ông ta vào
bệnh viện Quân đội nằm bên kia sông. Mục sư Shin, được Park và Tuyên
úy Koh dìu hai bên, đau khổ nhìn khuôn mặt bị đánh bầm dập của người
mục sư trẻ tuổi. Hơi thở mục sư Hann khó nhọc.
“Tiếng la hét của đám đông khiến anh ấy hoảng sợ” – Tuyên úy Koh nói
nhỏ – “Đó là lỗi của tôi. Khi đó anh ấy không tự chủ được nữa và tôi phải
nắm chặt lấy anh ấy để anh ấy yên. Một viên đá làm vỡ cánh cửa sổ trên lầu
nơi phòng chúng tôi, và tôi buông anh ấy ra một lát để mở cửa, định đem
anh ấy xuống hầm dưới nhà. Tức thì anh ấy chạy ra và…”
“Đủ rồi Tuyên úy”. Mục sư Shin ngắt lời.
Vài phút sau, ông Hann bắt đầu thở giật từng cơn. Hai con mắt ông đột
nhiên mở lớn và toàn thân ông rung động dưới lớp chăn màu nâu thẫm.