lòng biết ơn của chúng tôi đối với buổi lễ truy điệu này. Lòng biết ơn của
chúng tôi đối với tất cả quý vị, đã chia sẻ nỗi đau khổ và sự mất mát lớn lao
của chúng tôi. Giờ đây tôi đứng trước quý vị, ăn năn và hối lỗi, nhưng tôi
không còn đủ sức bộc lộ hết cho quý vị những gì con tim tôi ao ước”. Anh
ngừng nói và lấy trong túi áo ngực ra một cuốn sách nhỏ. “Đây là cuốn
Thánh kinh mà cha tôi đã trao cho tôi khi tôi vừa đủ khôn lớn để đọc và giờ
tôi muốn đọc một đoạn trong Thánh kinh này, cuốn sách mà giờ đây, một
lần nữa, tôi đã trở lại với, sau bao năm tháng lưu đày xa cách”.
Đại tá Chang cùng tôi trao đổi ánh mắt.
Park bắt đầu đọc: “Tại sao chưa đến ngày Phán xét của Đấng Toàn năng?
Tại sao những kẻ biết đến Chúa không bao giờ thấy được ngày ấy? Những
kẻ kia chiếm thêm đất đai, chúng lừa cướp súc vật và dắt đi ăn cỏ. Chúng
dắt theo con lừa của đứa trẻ mồ côi; chúng giữ con bò của người đàn bà góa
làm tin. Chúng gạt người nghèo khó xuống khỏi đường; tất cả những người
nghèo khó trên trái đất này đều bị bắt buộc phải ẩn mình. Hãy coi, như
những con lừa hoang trong sa mạc, họ ra đi lam lũ kiếm miếng mồi trong
nơi hoang dại làm của ăn cho con họ. Họ lượm lặt rơm rạ ngoài cánh đồng,
họ mót những trái nho rơi vãi trong vườn nho của bọn phú ông độc ác. Họ
nằm trần truồng không manh áo, không một mảnh chăn đắp trong đêm lạnh
giá. Họ ướt run dưới cơn mưa từ đỉnh núi, họ bám vào vách đá tìm chỗ ẩn
thân…”.
Đại tá Chang thì thào: “Anh ta đọc gì thế?”.
“Job”.
“… dọc theo những hàng cây ô-liu trong vườn bọn phú ông độc ác, họ ép
dầu, họ ép nho làm rượu trong khi miệng khát. Từ trong thành phố, những
kẻ đang chết dần mòn cất tiếng than vãn rên rỉ và linh hồn những người bị
thương kêu xin Chúa cứu giúp; nhưng Chúa đã khước từ ngoảnh mặt làm
ngơ trước lời cầu nguyện của họ”.
Park ngừng lại và đặt quyển Thánh kinh xuống; rồi nhìn cử tọa, anh lặp
lại thuộc lòng: “Từ trong thành phố, những kẻ đang chết dần mòn cất tiếng
than vãn rên rỉ và linh hồn những người bị thương kêu xin Chúa cứu giúp;