Tôi đặt ấm nước lên lò và mời ông dùng trà với tôi. Tôi nói: “Ông không
nên đi ngoài trời lạnh như vậy. Bệnh ho của ông thế nào?”.
“Mấy hôm nay tôi khoẻ lắm. Tôi nghĩ chưa bao giờ tôi khỏe kể từ trước
chiến tranh cho tới giờ”.
“Dầu sao mục sư cũng nên đi gặp bác sĩ. Mục sư thường ngủ có ngon
giấc không?”
“Ồ có, thực ra tôi ngủ quá nhiều”. Ông mỉm cười. Hơi nước bốc ra từ đôi
giày và chiếc áo ngoài cũng ướt sũng nước của ông. “Đơn vị của ông giờ
chắc chưa tới Hán Thành, phải không Đại úy?”
Tôi cho ông biết họ phải ở lại ban đêm ở Sariwon và họ sẽ tới Hán
Thành vào sáng hôm sau.
Ông nói: “Thành phố bắt đầu đầy rẫy những người tị nạn từ phía Bắc
tràn xuống. Các mục sư họp hôm nay là để xem chúng tôi có thể làm được
gì cho họ. Chúng tôi đã dùng nhà thờ làm chỗ cho họ tạm trú. Nhưng tôi
không biết làm thế nào chúng tôi có thể nuôi nổi họ. Riêng nhà thờ tôi cũng
đã chứa đến năm sáu trăm người. Nhiều người trong bọn họ chạy suốt từ
biên giới xuống đây. Họ sẽ ra sao?”.
“Ông thấy có nhiều người Kitô giáo trong bọn họ không?”
“Có. Từ đây họ sẽ đi đâu nữa? Họ có thể đi đâu bây giờ?”
Ấm trà đã nóng. Tôi rót trà vào tách cho ông.
Ông đăm chiêu nhìn cốc trà bốc khói: “Chúng tôi vừa chôn một đứa trẻ,
mười hai tuổi. Cha nó bị quân của Bắc Hàn đưa đi ít lâu trước khi chúng tôi
được giải phóng, và nghe đâu ông ta đã chết trên đường lên miền Bắc, một
trong những cuộc hành trình thập tử nhất sinh ấy. Trước khi kiệt sức, đứa
bé hỏi tôi rằng khi nó chết, nó có được gặp cha nó trên thiên đàng không?
Tôi trả lời có, nó sẽ gặp cha nó. Thế trên thiên đàng có còn mấy người cảnh
sát bắt cha nó đi nữa không? Dĩ nhiên không, tôi trả lời. Còn mẹ nó? Nó có
thể gặp mẹ nó trên ấy một ngày nào đó không? Có, tôi bảo có, có, nó sẽ
gặp, dĩ nhiên nó sẽ gặp. Và ông biết không, đứa bé nhìn mẹ nó đang sụt sùi
bằng cặp mắt đầy thương mến nhớ tiếc và tôi, tôi cũng khóc. Rồi ngày hôm
nay chỉ còn chiếc quan tài trắng với tuyết và bùn đen ẩm ướt – không còn