Một lúc sau ông nói: “Tôi phải đi bây giờ. Tôi phải có mặt ở nhà thờ, tôi
phải làm tất cả những gì tôi có thể làm. Đại úy có biết khi nào thì người ta
bỏ thành phố không?”.
“Không, tôi không rõ, nhưng tôi sẽ biết sớm”.
“Tình hình mặt trận ra sao?”
Tôi nói sơ cho ông biết tình hình.
Ông bảo: “Thế thì chắc không còn lâu đâu”.
“Vâng, có lẽ chỉ còn là vấn đề ngày giờ thôi”, tôi đáp.
Ấm nước trên lò reo nhẹ, thỉnh thoảng ứa ra những giọt nước xèo xèo
trên lò than. Tiếng chân và tiếng nói xen lẫn ở phòng ngoài. Nền nhà ken
két dưới chân tôi. Thiếu tá Minn vào bảo tôi rằng ông ta và nhân viên sắp ra
ga đón nhận những người bị thương. Khi tôi bước ra khỏi phòng, không
thấy bóng một người nào, tòa nhà vắng hoe. Ở tầng dưới có tiếng điện thoại
reo mà không ai trả lời. Tôi ra khỏi nhà, đi bộ đến nhà thờ của mục sư Shin,
như bị lôi cuốn tới đó bởi một tảng đá nam châm, để được ở trước mặt ông.
Bên trong nhà thờ lạnh giá chật ních người, không có một chỗ để lách
mình. Từng hàng ghế chồng lên nhau, ép sát vào tường. Đám người tị nạn
chen chúc trên sàn gỗ trống trơn, một vài người ngồi bệt dưới đất, cúi mình
trên những bao hành trang, nhiều người nằm co quắp. Nhà thờ nồng hơi
người và thức ăn. Mùi cháo rau bốc lên trong không khí ẩm lạnh. Chỗ này
chỗ kia một đứa bé khóc. Trẻ con chạy lung tung. Bên trong căn nhà thờ
mái cao dội lại tiếng chúng la cười. Một ông già vừa khua tay vừa gọi lớn
tên một người đàn bà. Một đám bụi lờ mờ lơ lửng trên những bóng người
đang nằm ngồi la liệt dưới đất, dưới ánh sáng mờ nhạt của những chân nến.
Tôi lướt tới bàn thờ nơi mục sư Shin đang phát thức ăn cho một đám người
tị nạn sắp hàng. Một đứa bé gái, mình quấn chiếc mền rách, miệng nhai
miếng cá khô, nhìn tôi chăm chăm rồi chạy tới bên một người đàn bà đang
ẵm một đứa trẻ khác cho bú. Đứa bé núp sau lưng người đàn bà, giấu
khuôn mặt lem luốc vào trong váy mẹ và bật khóc. Người đàn bà ngước đôi
mắt mệt nhọc lên nhìn bộ đồng phục của tôi.