33
S
áng hôm sau, tôi thức dậy vào khoảng 7 giờ. Tôi nhận ra có lẽ là người
lính chạy giấy của Thiếu tá Minn. Trời còn tối. Ánh sáng độc nhất trong
căn phòng là ánh lửa chập chờn xuyên qua lỗ hổng nơi lò than. Đầu tôi
nhức như búa bổ, tôi thấy yếu lả người và chỉ muốn ngủ lại. Tôi nằm yên
lặng hồi lâu trên giường, lắng nghe tiếng thì thào mơ hồ ngoài phòng, tiếng
than cháy lách tách trong lò và đôi khi tiếng thở nặng nề của người nằm
bên giường kia. Một lúc sau có tiếng cửa phòng bên cạnh mở; rồi cửa
phòng tôi cũng mở, Thiếu tá Minn rón rén bước vào. Tôi ngồi dậy. Ông ta
vừa tiến lại gần tôi vừa liếc mắt nhìn lại phía giường bên kia.
Ông nói khẽ: “Đại úy thấy thế nào?”.
Tôi bảo tôi có thể dậy được.
Ông gật đầu: “Người bạn Kitô giáo của Đại úy kia, Đại úy không để ý
sao?”.
Tôi không hiểu ông nói gì.
“Cái ông mục sư đến thăm Đại úy ngày hôm kia ấy mà. Chúng tôi mang
ông ấy về đây hồi hôm, khoảng 11 giờ”. Thiếu tá Minn giải thích rằng có
một người đàn ông đến bệnh viện hỏi tôi lúc 10 giờ rưỡi tối qua. “Ông ta
xưng là người giữ nhà thờ. Mục sư của ông ta ngã quỵ trong một buổi cầu
kinh. Hình như người đã dặn ông ta nếu có chuyện gì thì đến tìm Đại úy, vì
thế ông ta đến đây. Nhưng Đại úy đang ở trong tình trạng không thể giúp ai
được hết, tôi bèn lái xe đến nhà thờ, lúc đó tôi vừa hết việc sau mấy vụ giải
phẫu và tôi không có việc gì làm lúc đó. Nhà thờ thật hỗn độn. Hẳn Đại úy
cũng biết. Họ sẽ làm gì với chừng ấy người tị nạn ở đó? Chúng tôi mang
người bạn giáo sĩ của Đại úy ra xe và đưa ông ta về đây, đặt vào phòng này.
Hy vọng Đại úy không phiền việc đó. Chỉ vì lúc này không còn sẵn phòng
nào trống cả. Ông ta bị sốt nặng, tim đập rất không đều và ông ta ở trong