Tôi hỏi mục sư Koh người đàn ông ấy có chứng kiến vụ hành quyết
không.
Ông lắc đầu: “Tiếc thay không. Ông ta không chứng kiến tận mắt. Bởi
thế… không biết phải tin chuyện nào nữa?”.
“Thật kỳ dị, những người ở những nơi khác nhau mà lại cho là mình đều
đã thấy mục sư Shin cả”.
“Vâng, và làm sao mà tôi có thể phủ nhận hay nghi ngờ những gì họ nói?
Họ đã nghe tả dáng dấp mục sư Shin và họ nghĩ là họ đều đã thấy mục sư”.
Ông lại lấy búa đập vào mỏm đá.
Về sau, khi chúng tôi trở lại ngôi “nhà thờ” lều của ông, ông Koh yêu
cầu tôi ở lại thêm một lúc nữa. Tôi nhận lời ông và xin lỗi đã đến thăm làm
cản trở công việc đóng sàn cho nhà thờ của ông.
“Ồ, tôi không gấp gì, mai làm cũng được”.
Tôi giúp ông thu xếp ván, đinh, rồi quét dọn nhà thờ. Xong xuôi, chúng
tôi ra ngồi dưới ánh mặt trời đối diện với những căn lều, nhìn trẻ con chơi
đùa và lắng nghe những tiếng nói rì rầm xung quanh. Mục sư Koh dùng
con dao bỏ túi vót cho nhẵn một cây thánh giá bằng gỗ. “Tôi mới làm sáng
nay đây. Tôi nghĩ nhà thờ cần có một cây thánh giá”.
Dần dần trời mát dịu và bóng những căn lều trên mặt đất trải dài về phía
chúng tôi. Phà bắt đầu chở những người di cư tị nạn từ Pusan về đảo. Tiếng
người nói, tiếng chân, tiếng trẻ con la hét hòa lẫn với tiếng còi, tiếng máy
phà. Đám người xuất hiện từ bốn phía, nhiều người tiến ra bãi biển mà
chúng tôi đã ra lúc trước. Ngoài xa, hình dáng xám xịt của một khu trạm
hạm hiện ra lờ mờ. Lấy khăn tay lau chùi cây thánh giá, mục sư Koh mời
tôi đi ăn tối. Chúng tôi chui vào một căn lều cạnh nhà thờ và ăn vài lon đồ
hộp. Ngoài kia, từ những căn lều khác, vang lên những tiếng nói lớn, đôi
khi tiếng cười và tiếng soong chảo chạm nhau.
Ông đứng dậy: “Tôi đi ra ngoài xem có chút nước sôi nào không. Chúng
mình sẽ uống trà”.
Chiều xuống thật chậm.