chúng ta, nhất là khi chúng tôi sống sót trong lúc mười hai người mục sư
kia bị hành hình thì danh từ “phép lạ” ấy lại càng trở nên hàm hồ. Bởi vậy
những nghi ngờ ấy không có gì là vô lý cả”.
Tôi kêu lên: “Nhưng ông hoàn toàn vô tội trước những ngờ vực đó chứ,
ông Shin? Riêng tôi thì tôi tin rằng ông đã nói với tôi sự thật”.
Ông ta run nhẹ trong chiếc ghế. “Tôi đã nói với ông những gì tôi có thể
nói”.
Tôi lặp lại: “Nhưng ông vô tội chứ?”
“Vâng”.
“Vậy những điều ông nói với tôi đúng sự thật?”
“Tôi nói sự thật của lương tâm tôi, Đại úy ạ”.
“Tôi không đủ khả năng để phán đoán sự thật sao?”
Giọng ông nghiêm trọng: “Đại úy không thấy rằng ông căn cứ trên sự
thật của con người, còn tôi trên sự thật của đức tin?”
“Vậy ông thấy ông vô tội trước mắt Chúa của ông?”
Ông ngạc nhiên, nhìn tôi chăm chăm một lúc, đoạn hạ thấp mí mắt, ông
nói, giọng trầm trầm: “Hãy để cho Người phán xét tôi”.
Mục sư Shin theo tôi ra cửa. Tôi hỏi thăm về người mục sư trẻ tuổi và
được biết mục sư Hann được bác sĩ và bà vú săn sóc cẩn thận, ngoài ra ông
không nói gì thêm. Tôi muốn làm một việc gì giúp ông. Tôi đang định bảo
ông nếu cần tôi giúp gì thì đừng ngần ngại gì cả thì đột nhiên ông hỏi tôi:
“À này, không biết ông có quen một thanh niên cỡ tuổi ông – Indoe Park –
không?”.
Tôi reo lên: “Quen lắm chứ, Park là người bạn thân nhất của tôi”.
Ông nhìn tôi vài giây như thể ông tiếc đã hỏi tôi về Park, đoạn ông nói:
“Điều cuối cùng tôi nghe nói về Park, là anh ấy đang dạy đại học ở Hán
Thành. Ông cũng dạy ở đấy trước chiến tranh. Tôi nghĩ ông phải quen biết
anh ấy”.
“Chúng tôi ít khi rời nhau. Chúng tôi cùng dạy một môn. Nhưng làm sao
ông biết Park?”