giáo. Thật vô nghĩa! Nhưng dầu sao tôi cũng vẫn vui mừng thấy ông Shin
còn sống sót bởi vì tôi vẫn nghĩ rằng ông ấy là bạn thân nhất của tôi, dẫu
cho ông ấy khinh bỉ tôi đến mấy đi chăng nữa”.
“Ông Shin khinh bỉ ông?”
Ông ta đăm chiêu: “Ông ấy khinh bỉ tôi. Vâng, ông ấy khinh bỉ tôi”.
“Ông muốn nói gì?”
“Như tôi đã nói với Đại úy, tôi không cần biết thiên hạ nghĩ sao về tôi.
Nhưng tôi trọng ý kiến của một người. Đó là mục sư Shin. Tôi không thể
chịu đựng nổi khi nghĩ rằng chính ông ấy cũng khinh bỉ tôi. Cho nên tối
qua khi gặp ông ấy, tôi đã nói hết sự thật về tôi, về người bô lão nọ và xin
ông ấy một lời khuyên bảo”.
Tuyên úy Koh tiếp: “Tôi nói rõ tất cả sự thật. Đại úy xem, tôi đã quá mệt
mỏi trong cái vai trò làm một vị thánh hay một Judas bán Chúa, tùy theo
cách người ta nhìn sự việc. Tôi nghĩ tôi đã chán ngấy vị bô lão kiêu căng nọ
và mấy người khác. Tôi bảo ông ấy tôi sắp trình bày hết những việc đã xảy
ra không phải để tự biện minh, nhưng vì tôi không thể chịu đựng nổi cái ý
tưởng ngu xuẩn về nỗi đau khổ can cường và lòng kiêu hãnh sai lầm của
những người Kitô giáo Bắc Hàn, những người gọi tôi là kẻ hèn nhát, đồ
phản giáo và gì gì nữa. Họ là những kẻ bệnh hoạn, Đại úy ạ, họ vẫn còn bị
tê liệt bởi cái căn bệnh tinh thần đã nhiễm phải vì ngoan ngoãn chịu đựng
quân Bắc Hàn hành hạ tra tấn. Bây giờ được giải thoát, họ làm gì? Họ ngồi
bàn cãi suông, chỉ có vậy.
“Về phần mục sư Shin, ông ấy rất tức giận vì thấy tôi trong bộ quân phục
và thấy tôi nhúng tay vào những công việc mà ông ấy gọi là công việc của
những người hô hào bạo lực nhân danh công lý. Nhưng tôi nghĩ mục sư tức
giận hơn hết khi biết tôi có ý định phá vỡ cái hào quang ảo tưởng của vị bô
lão kia và bắt ông ta chạm mặt với sự thật về đứa con khốn nạn của ông ta.
Bởi thế mục sư nói với tôi: “Ông hãy nghĩ đến những gì sẽ xảy ra cho ông
ta”. Tôi trả lời: “Có quan hệ gì đến tôi?”. Mục sư Shin đáp: “Ông ta đã già
và ông ta cần đến những cái mà ông gọi là hào quang ảo tưởng kia. Làm
sao ông dám làm cho ông ta đau khổ thêm nữa chứ! Ông ta đã mất đứa con,