của ông ấy. Tôi không cần biết ông là người tuẫn giáo hay anh hùng hay gì
nữa. Điều đó không dính dáng gì tới tôi. Tôi chỉ muốn biết ông có chết như
một người cuồng tín cho đến khi chết vẫn tin tưởng, vẫn trung thành với cái
hình ảnh mình là một tông đồ hoàn hảo nhất của Chúa trên trái đất này. Tôi
tin rằng đó là những gì ông tự nghĩ về ông. Và tôi muốn biết ông có chết
trong cái hình ảnh bất di bất dịch kia của ông không?”
Anh buồn bã nói thêm: “Tôi có quá nghiêm khắc không?”.
“Bây giờ ông cụ là một người tuẫn giáo, cậu phải nhớ điều ấy”.
“Không quan trọng gì. Tôi chỉ muốn biết tôi có thể chia sẻ được gì với
ông trong những ngày cuối cùng của cuộc đời ông ấy không”. Anh ngừng
lại.
“Cậu cứ tiếp”.
“Nếu không thì chúng tôi sẽ xa lạ với nhau mãi mãi”.
“Nhưng tại sao cậu cứ bị điều ấy ám ảnh mãi thế?”
Mắt anh bừng sáng. “Khi chúng tôi gặp nhau lần cuối cùng, tôi bảo ông
rằng chính ông cũng không phải là không thể sai lầm. Ông nhận thức được
điều đó sớm hơn thì linh hồn ông sẽ tìm được sự cứu rỗi thực sự xứng đáng
hơn, vì chính đó là điều ông muốn. Vâng, tôi đã bảo ông thế, và giờ đây tư
tưởng đó ám ảnh tôi. Cậu có hiểu được điều ấy không?”
“Tôi không lưu tâm đến những liên hệ thông thường hay liên hệ trần tục
giữa cha và con. Và tôi cũng không bận tâm đến việc tôi là đứa con bị ông
khước từ. Tôi bận tâm đến ông bởi vì ông là một kẻ cuồng tín, một người
đam mê Thượng đế. Ông không bao giờ bình tĩnh phán xét mình, ngay cả
khi ông nghĩ ông phải từ tôi. Ông luôn luôn cho rằng ông làm đúng. Ông
không bao giờ nghi ngờ lòng tin của ông nơi Chúa và không bao giờ, dẫu
trong một khoảnh khắc, ngờ vực rằng ông và Chúa của ông có thể không
hoàn toàn hòa hợp với nhau như ông hằng tin tưởng”.
Park xoay lại chỉ ngôi nhà thờ đổ nát, “Thế giới của ông ấy đấy”.
“Còn cậu, có bao giờ cậu phán xét mình một cách thiếu bình tĩnh như
cậu nói?”