Cảnh ấp, những đêm đào rượu chôn, trở nên quái đản. Khách qua
đường đêm vắng, tưởng đấy là một vụ chôn của hoặc là đào mả trộm.
Hướng vào nhà khách và cách nhà khách độ ba mươi bộ, có một cái
gò con. Chỏm gò phất phơ toàn một giống thạch sương bồ. Sườn gò, đây đó
ít gốc rền tía. Gò ấy, chính là huyệt rượu. Bá Nhỡ chôn cơm men và rượu
cất ở mả rượu ấy. Ngoài Bá Nhỡ ra, cấm dân ấp không được ai lai vãng gần
tửu phần. Tửu phần đã phân ra từng khu đông tây nam bắc và chia từng
hàng luống như ở một nghĩa trang sơn thôn. Trên các khu và các luống tửu
phần, có những thẻ tre sơn vôi trắng, viết chữ đen và sơn đỏ, có thể hòa lẫn
với bài bùa phù thủy. Ấy là Bá Nhỡ ghi ngày tháng từng lứa rượu và đặt tên
cho từng mẻ rượu, lắm thứ tên những nghe không thôi mà đã muốn đem cái
vui cái buồn trong lòng ra gởi ngay vào đấy. "Vô cố nhân" - "Mê Thảo
Hầu" - "Thuần Hoành Quận Chúa" - "Ức Sấu Viên". Đến cái tên sau cùng
này trong cách tìm chữ đặt tên riêng cho rượu ấp thì Bá Nhỡ đã bày rõ cái
thân mật tình cảm mình đối với tâm sự của chủ nhân Mê Thảo. Chữ Sấu
Viên là tên hiệu riêng của Mợ Lãnh lúc làm thơ. Mợ Lãnh qua đời rồi, thấy
Cậu Lãnh nhớ vợ quá, Bá Nhỡ bèn đặt việc ấy vào một cái tên rượu. Đêm
đêm nhớ vợ, chủ ấp lại uống hàng chục chén và có khi hàng vò "Nhớ Con
Vượn Gầy"! - người Mợ Lãnh vốn gầy và hai tay rất dài. Gợi cảm thay! Và
cũng tốn nước mắt thay! Khi uống đến thứ nước say ấy, chính Cậu Lãnh đã
ốm nhiều trận vì những đêm suông bên cạnh vò sành "Ức Sấu Viên", tiếng
khóc vượt qua mấy lần nương dâu trĩu sương cành.
Cỏ gò chôn rượu bừng dậy, chật xanh bóng thạch sương bồ bên cái
sáng bốc khói của đuốc lớn. Người phụ việc cầm cuốc, Bá Nhỡ cầm mai, hì
hục đào. Những tiếng chìm chìm sương rừng gieo xuống những tiếng đục
đục loài kim thảo ruột loài thổ. Lặng lẽ hơn hết là cái người chủ ấp ngồi
trong phòng đợi rượu đào. ánh sáng thản nhiên của bạch lạp tỏa quanh áo
tang khăn trắng người tửu đồ tinh chưng đang vò võ đối mặt với tranh lạnh.