vẫn tồn tại góc nhỏ nào đó thuộc về chính gã, rồi ánh sáng đi qua đó, như
thể qua một kẽ nứt trong bóng tối: ánh sáng từ quá khứ. Ta nghĩ quả thực
cũng dễ chịu nếu được nghe lại một giọng nói chân thành, gợi lên bao ký ức
về gió, cây, mặt trời trên cỏ, những thứ bị lãng quên như vậy.
“Nhưng dĩ nhiên, như thế chung cuộc sẽ chỉ khiến cho phần xấu xa
trong con người gã thêm cáu giận - trừ phi phần đó có thể bị chinh phục.
Trừ phi nó có thể được chữa trị,” Gandalf thở dài. “Chao! Chẳng có hy
vọng gã ta sẽ được thế. Nhưng cũng không đến nỗi hoàn toàn vô vọng.
Không, không hoàn toàn, dù gã đã sở hữu chiếc Nhẫn lâu quá, hầu như từ
tận hồi nảo hồi nào đến suýt không còn nhớ nổi. Bởi vì cũng đã lâu gã
không còn đeo thường xuyên: trong bóng tối đen đặc thì hiếm lúc nào cần
đến nó. Chắc chắn gã vẫn chưa từng ‘mờ đi’. Gã vẫn còn mảnh khảnh mà
dẻo dai. Nhưng thứ đó ăn dần tâm trí gã, dĩ nhiên rồi, và cực hình trở nên
gần như không chịu nổi.
“Mọi ‘bí mật to lớn’ bên dưới rặng núi hóa ra chỉ là đêm trống rỗng:
chẳng có gì hơn để mà tìm hiểu, chẳng có gì đáng làm duy nhất chỉ có ăn
uống dơ dáy lén lút và hồi tưởng đầy phẫn nộ. Gã nhìn chung rất khốn khổ.
Gã sợ bóng tối, và còn ghét ánh sáng hơn: gã ghét mọi thứ, trên hết là chiếc
Nhẫn.”
“Ý ông là gì?” Frodo hỏi. “Chắc chắn chiếc Nhẫn là Bảo Bối của gã, thứ
duy nhất gã quan tâm đến chứ? Còn nếu gã ghét nó, tai sao gã không tống
khứ nó đi hay rời đến nơi khác bỏ nó lại?”
“Cháu phải bắt đầu hiểu đi chứ, Frodo, sau tất cả những gì cháu đã được
nghe,” Gandalf nói. “Gã căm ghét nó và cũng yêu nó, hệt như gã căm ghét
và yêu chính bản thân mình. Gã không thể giũ bỏ nó đi. Trong chuyện này
gã chẳng còn lại tí ý chí nào hết.