đốc một ngân hàng về hưu. Quả nhiên, bà ta ra tiếp lão với cánh tay bó bột
trắng toát. Tôi sốt ruột.
- Thế bây giờ làm thế nào?
Lão tuyên bố chắc nịch.
- Có lẽ tao không có duyên với việc bán tranh, nên sẽ gửi mày bán hộ.
Với lại treo tranh ở cái phòng khách sang trọng của mày sẽ bán được giá
hơn. - Rồi không cần tôi đồng ý, lão xăm xăm bước ra sân trước bê bức
tranh bọc vải hoa vào, dựng ở bức tường cạnh ghế sô pha. Lão hấp tấp. -
Với lại thế này, tao thấy có một số việc quái lạ…
Nhưng rồi lão lập cập tu luôn chai rượu đặt trên bàn như thể sợ buột
miệng ra điều gì đó khiến tôi có thể gây phiền phức cho bức tranh. Lão lấm
lét nhìn miếng vải hoa rồi vội vã bước ra cửa mà không buồn dặn dò tôi
xem phải bán bức tranh bao nhiêu tiền.
Tôi nằm cuộn tròn trên ghế sô pha, bật vô tuyến và nhắm mắt lại, hy
vọng âm thanh đều đều từ trận đấu bóng trực tiếp phát qua vệ tinh sẽ kéo
cơn buồn ngủ đến. Bất chợt, một hơi lạnh buốt khiến tôi rùng mình, cùng
lúc đó cánh cửa sắt rít lên như thể ông bạn già của tôi lại vừa đưa tay đẩy
cửa. Tôi cao giọng.
- Bác Chung đấy à? Phải bác không?
Tôi vớ lấy chiếc đèn pin và lia một vòng quanh sân trước. Không có
ai. Ðúng là tôi sơ suất thật. Có lẽ vừa rồi một tên đạo chích nào đó trên
đường ăn đêm đã hé cửa ra thám thính. Tôi khoá cửa sắt lại và quay vào
nhà. Bỗng nhiên, giàn hoa giấy trước hàng hiên rung ào ạt và lại một cơn
gió lạnh buốt luồn tới. Cơn gió giữa đêm đông không những khiến tôi run
cầm cập mà còn thốc mạnh như một cơn lốc xoáy giữa mùa hè. Nó thổi
những đám lá rụng dồn vào trong nhà, tung bụi mù mịt lên tủ tường, lên
mặt bàn kính bóng lộn và sộc lên ghế sô pha. Tôi vội vàng đóng cửa chính
lại và giật mình khi thấy tấm vải hoa ban nãy ông bạn già cuốn rất chặt giờ
lăn lóc dưới đất. Ðúng là do cơn gió quái ác vừa rồi.
Tôi nhắm mắt cỗ dỗ dành giấc ngủ, nhưng thỉnh thoảng lại liếc về phía
bức tranh. Cái suy luận tấm vải hoa bung ra do cơn gió vừa rồi quả vô lý, vì
nó đã được cuốn chặt tới mấy vòng cơ mà. Nếu bị gió thổi tung thì bức