đầu ngón tay. Chiếc chén di chuyển qua những con chữ trong khi ông bạn
già run rẩy ghi ra một tờ giấy “Xin hãy cứu tôi”.
Ông thì thào.
- Cô là ai?
Chiếc chén tiếp tục xê dịch chậm chạp.
- Tôi đang bị giam cầm.
- Xin cho tôi biết tên.
- Lâu quá rồi. Tôi đã quên mất tên của mình.
- Làm thế nào mà chúng tôi giúp cô được?
- Hãy tìm đến ngôi nhà trong bức tranh.
- Ngôi nhà đó ở đâu?
- Tôi không biết. Hắn đã giam cầm tôi qua bao ngày bao tháng. Tôi
không được ra ngoài.
Chiếc chén dưới tay tôi bắt đầu run rẩy và làn hơi lạnh buốt quen
thuộc trườn đi trườn lại quanh chiếc bàn. Lần này, tôi lên tiếng, khi đã đối
diện với nỗi sợ hãi.
- Vậy làm thế nào mà chúng tôi tìm được cô, và ai đã giam giữ cô?
Chiếc chén đột nhiên chạy vun vút, khiến ông bạn tôi ghi không kịp.
- Tôi phải đi đây. Tôi vội lắm. Tôi chỉ còn ba ngày nữa thôi. Nếu sau
mười năm không được siêu thoát, tôi sẽ bị giam cầm vĩnh viễn. Ngày mai
tôi không gặp các ông được nữa vì hắn sẽ cho người dán bùa chú trước cửa.
Chiếc chén dừng lại rồi bất động. Tôi kiên nhẫn đặt tay lên chén chờ
đợi nhưng hơi ấm từ ngón tay tôi dần toả nhiệt lên men sứ. Chiếc chén bắt
đầu ấm nóng. Tôi lẩm bẩm như người mộng du.
- Cô ta đi rồi. Giam cầm. Ngôi nhà. HẮN. HẮN là ai?
Chúng tôi ngồi im không nhúc nhích, và khi ánh bình minh đầu tiên
vừa ló rạng, ông bạn già của tôi rời chiếc ghế sô pha.
- Chúng ta sẽ đi tìm ngôi nhà.
Việc tìm kiếm ngôi nhà, theo tôi, khác nào tìm kim đáy bể. Trên khu
phố cổ người xe nhằng nhịt, cho dù có sẵn số nhà tìm cũng còn khó, huống
hồ… Ông bạn già hiến kế.