Nói rồi nàng lững thững bước, hờ hững như người xa lạ, như chưa
từng với tôi những đêm ngọt lịm nơi phòng trọ lắm dán nhiều chuột. Tôi
cất tiếng gọi, nàng âm thầm bước, không quay lại.
Nhớ có lần mẹ dẫn tôi đi chợ về, lúc đó gần giữa trưa, mẹ nắm tay tôi
rẽ ngang đến gò đất giữa cánh đồng làng. Đứng bên một ngôi mộ mới, mẹ
đốt vàng mã, bảo tôi lấy ba que nhang thắp lên.
- Đây là mả của ai hả mẹ?
- Mả của người làng mình. Con quỳ xuống vái cho phải đạo đi con.
- Đạo là gì hả mẹ?
Mẹ tôi im lặng, mắt đỏ hoe nhìn khói hương vòng vèo uốn quanh rồi
là là bay lên. Gió đồng nhẹ thổi trong hiu quạnh. Đồng vắng ngắt vắng ngơ,
chỉ có những con chiền chiện vút bay lên từ những đám ruộng xanh mướt,
cất tiếng lanh lảnh vang đồng. Sau này, trong một lần chăn trâu, tôi chợt
nhớ đến ngôi mộ ấy, hỏi mới biết đó là mộ lão Húng, trước làm y sĩ, sau
giải nghệ, làm nghề rà tìm vỏ bom mìn. Lão chết vì bom. Nghe nói xác lão
tanh bành mỗi nơi một miếng. Thằng cu Thin xóm Đồi nhặt được một cái
răng cửa vàng khè, sợ quá đến đem trả cho mụ vợ ông ta khi xác đã chôn cả
trăm ngày rồi.
Không còn mắt mèo đậu trên sống mũi trong cơn mơ bắt tôi thấy
những hình ảnh đẫm buồn. Tôi dần khoẻ lại. Một hôm vui miệng, tôi kể
cho cha nghe giấc mơ lạ lùng. Cha tôi toát mồ hôi, bảo:
- Thôi, chuyện vớ chuyện vẩn, kể làm gì.
Giọng cha thanh như giọng đàn bà. Cha nhìn tôi, cái cằm nhẵn thín
không râu giần giật. Vừa lúc đó mẹ bê ra một bát thuốc Bắc. Trời đất ơi, chỉ
sau mấy ngày tôi ốm, mẹ già sọp đi, gầy nhom, mắt thâm quầng, tôi nhìn
mà ứa nước mắt. Mẹ trao bát thuốc cho tôi, liếc nhìn cha, rụt rè, sợ sệt.
Tôi hoàn toàn khoẻ lại, chuẩn bị lên thành phố. Hôm trước khi đi, cha
con tôi đào sâu xuống dưới giường tôi. Đào được hai mét thì lộ ra lớp bùn
đất nhão bốc mùi thum thủm, tanh tưởi. Trong khói hương nghi ngút,
dường như vút lên một thanh âm trong trẻo, thanh thoát. Mẹ tôi cầm một bó
nhang to vái liên hồi, miệng đọc kinh thảng thốt. Để mẹ đành lòng, cha con
tôi hốt thứ đất ấy cho vào hũ sành đem chôn trên núi.