dường như đã ngầm mở ra một lối đi xuyên qua đám đông hỗn độn đó để
tới cánh cửa của một nhà kho lớn ở mạn cuối bến cảng. Đám đông đang
bướng bỉnh kháng cự lại tất cả những nỗ lực như thế, lùi xuống như thủy
triều sau mỗi lần xô lên.
Jamie đột ngột xuất hiện đằng sau tôi, theo sát là Jared, ông ta nheo
mắt nhìn cảnh tượng đám đông bên dưới. Bị tiếng la ó át đi, tôi không nghe
rõ họ nói gì.
“Chuyện gì thế?” Tôi đứng lên và tựa vào Jamie ở phía sau, gắng hết
sức chống lại sự đu đưa ngày càng tăng của con thuyền dưới chân. Tôi ý
thức được sự gần gũi đến từ mùi hương của anh; anh đã tắm lúc ở quán trọ
nên có mùi sạch sẽ và ấm áp, cùng với mùi thoang thoảng của mặt trời và
bụi đường. Khứu giác trở nên sắc bén là một hiệu ứng khác của việc mang
thai, rõ ràng là vậy; tôi có thể ngửi thấy anh giữa vô số mùi khó chịu và
mùi cảng biển, cũng như bạn có thể nghe thấy một giọng nói trầm khẽ ngay
sát bên mình giữa một đám đông ồn ào ầm ĩ.
“Anh không biết. Có vài rắc rối nào đó xảy ra với con thuyền kia, hình
như thế.” Anh đưa tay đỡ lấy khuỷu tay tôi để giúp tôi đứng vững. Jared
quay ra và khàn khàn xổ một mệnh lệnh bằng tiếng Pháp với một viên thủy
thủ ở gần đó. Người đàn ông này lập tức nhảy qua lan can và đu xuống cầu
tàu bằng một sợi dây thừng, bím tóc tết đen như hắc ín lủng lẳng trên mặt
nước. Chúng tôi quan sát từ trên boong thuyền, thấy anh ta gia nhập đám
đông, gợi chuyện với một thủy thủ khác trong đám người và nhận được một
câu trả lời, hoàn tất bằng những cử chỉ khoa tay múa chân ấn tượng.
Jared đang cau mày, cùng lúc đó người đàn ông tóc đuôi sam chen
ngược lên ván cầu đông nghịt người. Viên thủy thủ nói điều gì đó với ông
ta cũng bằng một thứ tiếng Pháp khàn khàn như thế, quá nhanh nên tôi
không thể nghe kịp. Sau vài từ trao đổi thêm, Jared quay ngoắt lại, đi tới
đứng cạnh tôi, hai bàn tay nắm lấy thành lan can.
“Cậu ta nói có người ốm ở trên chiếc Patagonia.”