ràng của chúng cũng đủ giày vò con người ta trong những giây phút đớn
đau nhất của cuộc đời. Tại kia, ngay trên mặt thảm, tôi trông thấy lưỡi dao
vừa rơi xuống, nằm vắt ngang phần cuống cong cong của chùm nho chín
mọng, tựa như sắp cắt rời cái cuống để nó bật tung khỏi những sợi thảm
đang cuộn tròn dưới chân chúng tôi.
Anh đứng sững, khuôn mặt trắng bệch như bộ xương, đôi mắt rực lửa.
Tôi siết cánh tay anh, nó cứng như gỗ bên dưới các ngón tay tôi.
“Làm ơn hãy tin em, làm ơn! Em sẽ chẳng làm vậy nếu có cách khác.”
Tôi run run hít một hơi thật sâu nhằm xoa dịu những nhịp đập dồn dập bên
trong lồng ngực.
“Anh nợ em mạng sống của mình, Jamie ạ! Không chỉ một mà là hai
lần. Em đã cứu anh khỏi bị treo cổ tại Wentworth và cả khi anh bị sốt cao ở
tu viện. Anh nợ em một mạng, Jamie!”
Anh nhìn chằm chằm xuống tôi một lúc lâu rồi trả lời, bằng giọng êm
ái nhưng đầy chua chát.
“Anh biết. Và giờ thì em đòi nợ sao?” Đôi mắt của anh hừng hực một
màu xanh trong thăm thẳm như màu xanh nằm ở tâm ngọn lửa.
“Em phải làm thế! Em không có cách nào khác để anh nhìn nhận lý do
này!”
“Lý do. À, lý do. Không, anh có thể nói ngay bây giờ rằng, anh thấy lý
do này chẳng là cái thá gì.” Sau đó, anh bắt tréo cánh tay ra sau lưng,
những ngón tay trái khum lại ôm lấy nắm tay phải, rồi chầm chậm bước xa
dần xuôi theo hành lang với mái đầu cúi thấp.
Hai bức tường chạy dài được treo rất nhiều tranh trang trí, có những
bức sáng lên từ bên dưới bởi chân nến hoặc trụ đèn, có những bức được
chiếu sáng từ bên trên bởi chùm giá nến mạ vàng; và một vài bức ít ỏi khác
được che giấu trong bóng tối giữa những khoảng sáng kia. Jamie từ tốn
bước giữa chúng, thi thoảng lại ngước nhìn như thể đang đối thoại với các
chân dung mang tóc giả quanh mình.