“Jamie thật may mắn khi có Ian,” tôi nói.
Jenny dời mắt khỏi bức tranh và chớp mắt một cái. Chị hơn Jamie hai
tuổi, ít hơn William ba tuổi.
“Phải, đúng vậy. Và chị cũng thế,” chị nói nhỏ, lại cầm cái áo lên.
Tôi nhặt một cái áo khoác ngoài của trẻ em trong rổ kim chỉ và lộn trái
nó để khâu lại chỗ bị bục chỉ ở đường khâu bên trong ống tay áo. Phòng
khách vừa ấm áp vừa dễ chịu, còn thời tiết ngoài kia quá lạnh nên mọi
người không ra ngoài, chỉ có đám trẻ nô đùa và đàn ông làm việc. Trong
lúc chúng tôi khâu vá, các ô cửa sổ chẳng mấy chốc đã mờ đi, cách ly
chúng tôi khỏi thế giới băng giá bên ngoài.
“Nhân nói chuyện về anh em,” tôi nói, nheo mắt lại để xỏ chỉ vào lỗ
kim, “hồi nhỏ, chị có hay gặp cậu Dougal và Colum MacKenzie không?”
Jenny lắc đầu. “Chị chưa bao giờ gặp cậu Colum. Cậu Dougal đến đây
một, hai lần để đưa Jamie về nhà ăn tất niên hoặc những dịp tương tự,
nhưng chị không cho rằng mình biết rõ ông ấy.” Chị ngước nhìn, hai mắt
sáng lên vì háo hức. “Em thì biết họ. Nói chị nghe, cậu Colum MacKenzie
trông thế nào? Chị luôn muốn biết điều đó sau khi nghe những mẩu tin tức
của khách khứa, nhưng cha mẹ chị không bao giờ kể về cậu ấy.” Chị dừng
lại một lúc, nhăn mày.
“Không, chị nhớ nhầm, cha từng nói về cậu ấy, một lần. Ngay sau khi
cậu Dougal quay về Beannachd cùng Jamie. Cha vươn người ra ngoài lan
can, quan sát họ cưỡi ngựa đi khỏi tầm mắt và chị bước tới để vẫy tay chào
Jamie - chị luôn cảm thấy đau buồn mỗi khi nó đi, bởi chị không biết nó sẽ
đi bao lâu. Dù sao chăng nữa, chị quan sát họ đi trên đỉnh đồi nhấp nhô, rồi
cha chuyển mình, lẩm bẩm nói: “Nếu Colum chết đi là Chúa giúp Dougal
MacKenzie.” Sau đó, ông nhớ ra chị ở đó nên quay sang mỉm cười và hỏi:
“Được rồi, cô gái, chúng ta có gì cho bữa tối đây?” Ông không nói gì
thêm.” Đôi lông mày đen mượt mà và đậm màu như nét chữ đẹp viết nên
uốn cong khi đặt câu hỏi.