quanh, anh sẽ thấy anh ấy ở đó, dường như anh chưa bao giờ đi xa. Anh ấy
sẽ mỉm cười khi trông thấy anh, như anh ấy luôn làm và sau đó bọn anh sẽ
đi bộ cùng nhau, sóng bước bên nhau, qua những cánh đồng và dòng suối,
nói chuyện về mọi thứ.” Anh thở dài, luồn tay vào mái tóc.
“Ian… anh ấy là một phần của anh, thuộc về nơi này, điều đó không
bao giờ thay đổi,” anh chật vật giải thích. “Anh nghĩ… mình phải nói với
anh ấy. Anh không muốn có cảm giác… chia cách. Với Ian. Với nơi đây.
Em có hiểu lý do đó không?”
“Em nghĩ là có,” tôi dịu dàng đáp lại. “Thế còn Ian?”
Anh hơi nhún vai vẻ không thoải mái, như thể muốn chỉnh lại chiếc áo
sơ mi quá chật. “Anh không biết nữa. Đầu tiên, khi anh bắt đầu kể với anh
ấy, Ian chỉ liên tục lắc đầu, dường như anh ấy không tin, sau đó, khi anh ấy
bắt đầu tin…” Anh dừng lại và liếm môi, tôi hiểu lời thú nhận trong tuyết
đó đáng giá với anh biết chừng nào. “Anh thấy anh ấy muốn nhảy dựng lên
và giậm chân đi tới đi lui, nhưng anh ấy không thể bởi vì cái chân đau.
Nhưng anh ấy siết chặt nắm đấm và gương mặt thì trắng bệch, anh ấy liên
tục nói: “Làm sao? Chết tiệt, Jamie, làm sao em có thể để hắn làm điều
đó?””
Anh lắc đầu. “Anh không nhớ anh đã nói gì. Hay anh ấy đã nói gì.
Bọn anh quát tháo lẫn nhau, anh biết điều đó rõ nhất. Và anh muốn đánh
anh ấy, nhưng không thể, bởi vì cái chân của anh ấy. Và anh ấy muốn đánh
anh, nhưng không thể - cũng bởi cái chân của anh ấy.” Jamie khịt mũi,
cười. “Chúa ơi, bọn anh hẳn phải giống một cặp đôi ngốc nghếch hiếm thấy
khi cứ khua tay và la hét vào mặt nhau. Tuy nhiên, anh la hét lâu hơn, cuối
cùng, anh ấy im lặng, lắng nghe đến hết câu chuyện.”
“Rồi đột nhiên, anh không thể nói tiếp, cảm giác thật vô dụng. Anh
ngồi ngay xuống một hòn đá, đưa tay ôm đầu. Sau đó một lúc, Ian nói rằng
tốt nhất bọn anh nên đi tiếp. Anh gật đầu, đứng dậy, giúp anh ấy lên ngựa
và lại bắt đầu đi mà không nói một lời.”