tắp trên yên ngựa như một ông vua. Anh gật đầu với một người đàn ông
đứng bên, và nhận lại một cái gật đầu tương tự. Tôi có cảm giác rõ ràng
rằng chúng tôi tiến vào lâu đài với một lá cờ trắng thể hiện sự đình chiến;
và tình trạng này sẽ kéo dài bao lâu thì chẳng ai đoán trước được.
Chúng tôi cưỡi ngựa đi thẳng vào sân trong của lâu đài Beaufort, một
công trình nhỏ so với một tòa lâu đài, nhưng gây ấn tượng mạnh mẽ bởi tất
cả mọi thứ đều được xây dựng từ đá tự nhiên. Không được gia cố nặng nề
như một vài tòa lâu đài mà tôi đã trông thấy ở phương Nam, nhưng nó vẫn
có khả năng chịu đựng một sự bào mòn đáng kể. Những lỗ châu mai rộng
miệng cách đều nhau chạy dọc chân những bức tường ở vòng ngoài cùng,
và tòa tháp canh vẫn lấy làm kiêu hãnh là một sự mở đầu vững vàng trên
đường tiến vào sân lâu đài.
Một vài chú ngựa nhỏ của vùng cao nguyên được nhốt ở đây, thò đầu
qua cánh cửa lửng bằng gỗ để hí chào ngựa của chúng tôi. Gần bức tường
có một vài kiện hàng vừa được dỡ xuống từ những con ngựa trong chuồng.
“Lãnh chúa Lovat đã cử một vài người tới gặp chúng ta,” Jamie nhận
xét khi nhìn thấy những kiện hàng. “Anh mong họ là họ hàng.” Anh nhún
vai. “Ít nhất thì ban đầu họ cũng sẽ đủ thân thiện.”
“Làm sao anh biết được?”
Anh trượt xuống từ trên lưng ngựa rồi giơ tay giúp tôi.
“Họ đã bỏ lại kiếm to bản ở chỗ hành lý.”
Jamie đưa dây cương cho người giữ ngựa vừa bước ra khỏi chuồng
ngựa để tới gặp chúng tôi, rồi phủi bụi trên chiếc quần ống túm của mình.
“Ờ, bây giờ thì sao?” Tôi thì thầm với Jamie. Không có dấu hiệu gì
của một bà chủ nhà hay quản gia; chẳng có dấu vết nào của một hình dáng
đầy uy quyền, hân hoan như của bà FitzGibbons đã từng chào đón chúng
tôi ở lâu đài Leoch hai năm trước.
Có vài người dắt ngựa và coi chuồng thỉnh thoảng liếc nhìn chúng tôi,
nhưng vẫn tiếp tục công việc của họ; vài người hầu băng qua sân cũng vậy,