động và trầm tĩnh với một chút nước còn lưu lại trên đó.
“Mẹ Hildegarde bọc nó trong mảnh vải xa tanh,” tôi nhìn xuống hai
nắm tay siết chặt trong lòng. “Đôi mắt của con bé không mở, nó cũng
không có lông mi, nhưng đôi mắt thì xếch. Em bảo mắt nó giống anh,
nhưng các bà ấy nói đứa bé nào cũng thế.”
Mười ngón chân và mười ngón tay. Không có móng nhưng có các
khớp xương sáng mờ, xương bánh chè và xương ngón chân giống như ngọc
mắt mèo, giống như những cái xương được nạm đá quý của lòng đất. Nhớ
lại thì…
Tôi nhớ cả tiếng loảng xoảng từ đằng xa của nhà thương, nơi cuộc
sống vẫn tiếp diễn và nhớ tiếng bàn bạc khẽ khàng của Mẹ Hildegarde cùng
bà Bonheur, họ đang nói chuyện với giáo sĩ, ông ấy đọc một lời cầu nguyện
đặc biệt do Mẹ Hildegarde yêu cầu. Tôi nhớ ánh mắt điềm tĩnh xem xét của
bà Bonheur khi bà ấy quay sang nhìn tôi, quan sát tình trạng yếu ớt của tôi.
Có thể bà ấy còn quan sát ánh sáng báo trước cơn sốt đang tới gần. Bà ấy
lại quay sang Mẹ Hildegarde, giọng còn nhỏ hơn trước - có thể bà ấy đề
nghị họ đợi, có thể cần đến hai đám tang.
Và cát bụi sẽ trở về với cát bụi.
Tuy nhiên, tôi đã quay lại từ cõi chết. Chỉ có Jamie mới đủ sức mạnh
kéo tôi trở về từ ranh giới cuối cùng và ông Raymond biết điều đó. Tôi hiểu
chỉ có Jamie mới có thể kéo tôi đi nốt con đường, trở về mảnh đất của
người sống. Đó là lý do tôi chạy trốn khỏi anh, làm mọi việc để giữ anh
tránh xa mình, để đảm bảo anh sẽ không đến gần tôi nữa. Tôi không muốn
quay về, không khát khao cảm nhận nó lần nữa. Tôi không muốn biết yêu
chỉ để rồi muốn xé bỏ nó thêm một lần nữa.
Thế nhưng đã quá muộn. Tôi biết, cho dù tôi đã chiến đấu để giữ lấy
tấm màn xám bao quanh mình. Chống cự chỉ càng đẩy nhanh sự tan rã của
nó. Việc đó giống như nắm lấy những mảnh vụn của đám mây, và nó tan
biến trong làn sương lạnh giữa các ngón tay tôi. Tôi cảm nhận được ánh
sáng đang đến, chói lòa và tinh tế.