vào với bà, và để em ra ngoài vào buổi sáng. Em nghĩ bà c-có thể thích có
người bầu bạn,” cô bẽn lẽn nói thêm.
“Ồ,” tôi nói. “Chà… cảm ơn em. Em suy nghĩ thật chu đáo.” Tôi lấy
một cây nến mới từ trong ngăn kéo tủ ra và đi đến lò sưởi để thắp nó lên.
Sáp nến cũ trên giá vón lại thành cục; tôi bèn vẩy lên mặt bàn và cắm cây
nến mới vào, không thèm chú ý đến thiệt hại với chiếc bàn chạm chìm của
Công tước.
“Claire,” Mary nói. “Có phải bà… bà gặp rắc rối không?”
Tôi cắn môi để ngăn một câu trả lời vội vã. Xét cho cùng, cô bé chỉ
mới mười bảy tuổi, và sự ngây thơ về các vấn đề chính trị của cô có lẽ còn
sâu sắc hơn sự thiếu hiểu biết về đàn ông mà cô từng có.
“À, phải,” tôi nói. “Khá nhiều, tôi e là thế.” Não tôi bắt đầu hoạt động
trở lại. Cho dù Mary không giúp được gì nhiều để tôi thoát ra ngoài, ít nhất
cô bé có thể cung cấp cho tôi thông tin về cha đỡ đầu của cô và những gì
đang diễn ra trong nhà gã.
“Em có nghe thấy tiếng huyên náo ở gần khu rừng lúc nãy không?”
Tôi hỏi. Cô gái lắc đầu. Cô đang bắt đầu run rẩy; trong một căn phòng lớn
thế này, hơi nóng của lò sưởi cũng lạnh đi từ lâu trước khi nó tới được chỗ
bệ kê giường.
“Không, nhưng em nghe một cô phụ bếp nói những người bảo vệ đã
bắt được một kẻ săn trộm ở trong khuôn viên. Trời lạnh khủng khiếp.
Chúng ta không thể lên gi-giường ư?”
Cô đang lồm cồm bò qua tấm khăn phủ giường, mò mẫm bên dưới
chiếc gối ôm để tìm mép của tấm chăn. Bờ mông tròn trịa và gọn gàng như
đứa trẻ dưới chiếc váy ngủ trắng.
“Đó không phải người săn trộm,” tôi nói. “Hoặc có thể là thế, nhưng
đó cũng là một người bạn. Ông ấy đang trên đường đi tìm Jamie để nói cho
anh ấy biết tôi ở đây. Em có biết chuyện gì xảy ra sau khi những người bảo
vệ mang ông ấy đi không?”