tâm, cũng không muốn gặp anh. Giờ thì tôi bắt đầu nghĩ tới một lý do mang
nhiều điềm gở hơn về sự vắng mặt của anh.
Cuối cùng, Louise là người lên tiếng, cô ấy đứng thẳng người, nâng
đôi vai tròn trĩnh lên để quyết tâm nhận lấy trách nhiệm này.
“Ông ấy ở trong ngục Bastille,” cô ấy nói, hít một hơi thật sâu. “Vì
cuộc đấu kiếm.”
Hai đầu gối tôi mềm nhũn, và tôi ngồi lên bề mặt gần nhất có thể.
“Vì chuyện quái gì mà cô không nói với tôi?” Tôi chẳng biết mình
cảm thấy thế nào trước tin tức này; choáng váng, kinh hoàng - hay khiếp
sợ? Hoặc một chút thỏa mãn?
“Tôi… tôi không muốn cô buồn, chérie,” Louise lắp bắp, lùi bước khi
thấy rõ nỗi đau của tôi. “Cô quá yếu… không thể làm gì. Và cô cũng không
hỏi,” cô ấy nói thẳng.
“Nhưng… bản… bản án đã bao lâu rồi?” Tôi gặng hỏi. Dù tôi có cảm
giác thế nào thì nó cũng được thay thế bằng sự việc cấp bách vừa ập tới. Tờ
giấy của Murtagh đã đến đường Tremoulins được hai tuần. Lẽ ra Jamie
phải xuất phát ngay khi nhận được nó - nhưng anh đã không thể đi.
Louise gọi người hầu, yêu cầu mang rượu cùng lọ a-mô-ni-ắc và lông
cháy đến ngay lập tức. Chắc chắn, vẻ mặt của tôi rất đáng báo động.
“Việc đó vi phạm sắc lệnh của Đức vua,” cô ấy nói tiếp, tạm ngừng
run rẩy. “Ông ấy bị nhốt trong ngục theo lệnh của Bệ hạ.”
“Ôi, Jesus H. Roosevelt Christ,” tôi lẩm bẩm, ước rằng mình có thể
nói điều gì mạnh mẽ hơn.
“Thật may vì le petit James không giết đối thủ của mình,” Louise vội
nói thêm. “Nếu rơi vào trường hợp đó, hình phạt sẽ còn nặng hơn… Ơ!” Cô
ấy gạt phắt chiếc váy kẻ sọc sang bên, kịp tránh chỗ sô cô la và bánh quy
rơi xuống sau khi tôi va phải những đồ ăn vừa mang đến. Cái khay rơi lạch
cạch xuống sàn nhưng tôi chẳng quan tâm, thay vào đó, tôi nhìn chằm
chằm vào Louise. Hai bàn tay tôi ghì chặt trên ngực, bàn tay phải ôm lấy và