không chứng minh được gì.”
“Đúng thế.” Roger thấy như có thứ gì đó nghèn nghẹn trong cổ mình,
và vội vã hắng giọng. “Nó là một bằng chứng tuyệt đối. Đối với cháu.”
Có thứ gì đó sáng lên tận sâu trong mắt bà, và nụ cười trở nên chân
thật hơn. Sau đó, những giọt nước mắt tuôn ra, chảy tràn khi bà đánh mất
sự kìm giữ một lần nữa.
“Cô xin lỗi,” cuối cùng bà nói. Bà đang ngồi trên chiếc xô pha, hai
khuỷu tay chống trên đầu gối, mặt vùi một nửa trong chiếc khăn mùi soa to
bản của mục sư Wakefield. Roger ngồi sát bên cạnh bà. Bà dường như rất
nhỏ bé và mong manh dễ vỡ. Anh muốn vỗ nhẹ lên những lọn tóc màu nâu
tần bì, nhưng cảm thấy quá ngượng ngùng nên không thể.
“Cô chưa bao giờ nghĩ… điều này chưa bao giờ xảy ra với cô,” bà nói,
xì mũi lần nữa. “Cô không biết nó sẽ có ý nghĩa nhiều đến thế nào khi có
một ai đó tin cô.”
“Ngay cả khi đó không phải là Brianna ư?”
Bà hơi nhăn nhó trước những lời này của anh, một tay vén tóc ra sau
và ngồi thẳng người lên.
“Đó là một cú sốc,” bà biện hộ cho con gái. “Hoàn toàn tự nhiên, con
bé không thể - con bé quá yêu quý cha nó - ý cô là Frank,” bà vội vàng
chữa lời. “Cô biết có lẽ con bé không thể đón nhận tất cả ngay từ đầu.
Nhưng… chắc chắn khi nó có thời gian để suy nghĩ về chuyện này, hỏi rõ
những thắc mắc…” Giọng bà nhỏ dần đi, và hai bờ vai dưới chiếc áo vét
bằng vải lanh trắng sụp xuống dưới sức nặng của những lời này.
Như để đánh lạc hướng bản thân, bà liếc nhìn chiếc bàn, nơi chồng
sách bìa sáng bóng vẫn để đó, không bị xáo lộn.
“Thật kỳ quái, đúng không? Khi sống hai mươi năm với một học giả
nghiên cứu về Jacobite mà lại sợ điều mình có thể biết được đến nỗi cô
chưa bao giờ dám mở một quyển sách của ông ấy ra?” Bà lắc đầu, vẫn nhìn
chằm chằm vào những cuốn sách. “Cô không biết chuyện gì đã xảy đến với