Tảng đá lở trên kia xuất hiện dạo gần đây. Dựa vào các mặt đá trắng
còn mới, ta có thể đoán vị trí hòn đá vôi cũ bị bào mòn dẫn đến đứt gãy và
chỉ có những cái cây bé nhất có thể bám rễ vững chãi giữa đống đá lộn xộn
này, không giống như các bụi cây đang phát triển rậm rạp, trải khắp triền
đồi.
Jamie nhích từng bước sang bên, bám vào các gờ đá để vượt qua nhiều
chỗ khó đi. Trong bầu không khí oi bức của buổi chiều, tôi thấy anh đi men
quanh tảng đá mòn, ôm lấy nó, tiếng dao găm cạo vào đá khẽ vọng tới chỗ
tôi.
Sau đó, anh biến mất. Tôi đinh ninh anh đang ở mặt bên kia, đi vòng
quanh tảng đá, nên chỉ chờ đợi, tận hưởng cảm giác ánh nắng rót trên vai.
Nhưng anh không quay lại và sau một lúc, tôi càng lo lắng hơn. Có thể anh
đã trượt chân ngã hoặc va đầu vào một hòn đá.
Phải mất một lúc lâu, tưởng chừng là mãi mãi, tôi mới cởi được các
nút thắt của đôi giày cao gót, thế nhưng anh vẫn chưa quay lại. Tôi túm lấy
mấy lớp váy, bắt đầu trèo lên đồi, các ngón chân trần thận trọng di chuyển
trên bề mặt lởm chởm và ấm áp của đống đá.
“Jamie!”
“Anh ở đây, Sassenach.” Anh nói từ đằng sau tôi, khiến tôi giật mình
và gần như mất thăng bằng. Anh tóm lấy cánh tay tôi, kéo tôi lên một
khoảng trống nằm giữa những chóp đá vỡ.
“Nhìn kìa!” Anh nói khẽ.
Tôi nhìn theo hướng anh chỉ, thấy một bức tường có bề mặt nhẵn vốn
là vách trong của một hang đá và thở hắt ra trước cảnh tượng đó.
Trên bề mặt vách đá vẽ hình những bầy thú lớn đang phi nước đại,
tung vó trên không trung trong lúc nhảy tới vùng ánh sáng trên kia. Trong
đám thú ấy có bò rừng bi-zon và hươu nai, tụ thành từng nhóm với cái đuôi
vểnh cao, cuối tường là vết tích của một bầy chim duyên dáng đang sải
cánh chao lượn phía trên thân hình nặng nề của đám thú bốn chân.